70 bài Giáo Lý Thánh
Mẫu
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
trong các Buổi Triều Kiến
Chung Thứ Tư hằng tuần từ 6/9/1995 tới
12/11/1997
hướng về ngày hiển
thánh 27/4/2014 SẮP ĐẾN của vị Giáo Hoàng
"totus tuus - tất cả của con là của Mẹ"
Các kinh nguyện bày tỏ lòng tôn sùng Thánh
Mẫu
Bài 69
(5/11/1997)
1- Qua các thế kỷ, lòng tôn sùng Thánh Mẫu đã hoan hưởng một cuộc
phát triển không bị lũng đoạn. Ngoài các lễ theo truyền thống phụng vụ được dâng
kính Mẹ Chúa, còn diễn ra một mùa nở hoa với muôn vàn những bày tỏ đạo đức,
thường được Huấn Quyền của Giáo Hội chuẩn nhận và khuyến
khích.
Nhiều việc tôn sùng Thánh
Mẫu và những lời cầu nguyện đã vươn tới cả chính phụng vụ và đôi khi đã góp
phần vào việc làm phong phú toàn diện phụng vụ nữa, như trường hợp Giờ Kinh
Phụng Vụ tôn kính Đức Trinh Nữ và các sáng tác khác đã trở thành một phần của
Kinh Thần Vụ.
Lời thỉnh nguyện Thánh
Mẫu được cho là đầu tiên từ thế kỷ thứ 3 bắt đầu bằng những lời: "Chúng con chạy
đến cùng sự chở che bảo hộ của Mẹ (Sub tuum praesidium), Ôi Thiên Chúa Thánh
Mẫu... " Tuy nhiên, từ thế kỷ 14, kinh nguyện thông dụng nhất nơi Kitô hữu vẫn
là "Kinh Kính Mừng".
Bằng việc lập lại những
lời đầu tiên thiên thần ngỏ cùng Mẹ Maria, tín hữu được dẫn đến chỗ chiêm ngưỡng
mầu nhiệm Nhập Thể. Tiếng Latinh "Ave" được chuyển dịch từ tiếng Hy lạp
"Chaire": nó là một lời mời gọi hãy vui mừng và có thể được chuyển dịch thành
"hãy hân hoan - Rejoice". Bài thánh ca Đông Phương "Akathistos" nhấn mạnh nhiều
lần đến chữ "vui lên' này. Trong lời "Kính mừng Maria", Đức Trinh Nữ được gọi là
"đầy ơn phúc" và vì thế Mẹ được nhìn nhận về sự trọn hảo và vẻ
đẹp trong linh hồn của Mẹ.
Cụm từ "Chúa ở cùng bà"
cho thấy mối liên hệ đặc biệt của Thiên Chúa với Mẹ Maria, một mối liên hệ xứng
hợp với dự án cao cả về giao ước của Ngài đối với toàn thể nhân loại.
Tiếp đến là câu "Bà có phúc hơn mọi người nữ và Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ"
cho thấy việc nên trọn của dự án thần linh nơi thân thể đồng trinh của người Nữ
Tử Sion.
Khi kêu lên "Thánh Maria
Đức Mẹ Chúa Trời" là Kitô hữu kêu xin vị là Người Mẹ vô nhiễm của Chúa nhờ đặc
ân chuyên biệt rằng: "Cầu cho chúng con là kẻ có tội", và phó thác bản thân mình
cho Mẹ khi nay và trong giờ lâm tử.
2- Kinh "Truyền Tin"
truyền thống cũng kêu mời Kitô hữu hãy suy niệm về mầu nhiệm Nhập Thể, thôi thúc
họ hãy lấy Mẹ Maria như điểm nương tựa của mình vào những lúc khó khăn trong
ngày sống của họ để bắt chước sự sẵn sàng của Mẹ trong việc hoàn trọn dự án cứu
độ thần linh. Kinh nguyện này làm cho chúng ta sống lại một cách nào đó đại biến
cố ấy trong lịch sử loài người, biến cố Nhập Thể mà hết mọi lời kinh "Kính Mừng
Maria" qui về. Ở đây chúng ta thấy được giá trị và sức thu hút của Kinh "Truyền
Tin", được diễn đạt rất nhiều lần chẳng những bởi các thần học gia và các vị mục
tử mà còn bởi các thi sĩ và họa sĩ nữa.
Nơi lòng tôn sùng Thánh
Mẫu, Kinh Mân Côi đã chiếm một vai trò quan trọng. Bằng cách lập lại kinh "Kính
Mừng", nó dẫn chúng ta đến chỗ chiêm ngưỡng các mầu nhiệm đức tin. Trong việc
nuôi dưỡng lòng yêu mến của dân Kitô giáo đối với Người Mẹ của Thiên Chúa, kinh
nguyện đơn sơ giản dị này cũng hướng kinh nguyện Thánh Mẫu đến đích điểm của nó
một cách rõ ràng hơn đó là tôn vinh Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI,
như các vị Tiền Nhiệm của ngài, đặc biệt là Đức lêô XIII, Đức Piô XII và Đức
Gioan XXIII, đã rất trân trọng việc lần chuỗi Mân Côi và muốnnó được lan
truyền rộng rãi nơi các gia đình. Hơn nữa, trong Tông Huấn Marialis Cultus, ngài
đã giải thích tín lý của nó bằng cách nhắc lại rằng nó là một "kinh nguyện Phúc
Âm, tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc", và nhấn mạnh đến "chiều hướng
Kitô học rõ ràng" của nó (khoản 46).
Lòng đạo đức phổ thông
thường thêm một kinh cầu vào Kinh Mân Côi nữa. Kinh cầu được biết đến nhất là
kinh cầu được sử dụng ở Đền Thánh Loreto và vì thế nó được gọi là "kKinh Cầu
Loreto".
Bằng những lời kêu cầu
rất đơn sơ giản dị nó giúp chúng ta tập trung vào con người của Mẹ Maria để nắm
bắt được những kho tàng thiêng liêng được tình yêu thương của Chúa Cha tuôn đổ
xuống trên Mẹ.
3- Như phụng vụ và lòng
đạo đức Kitô hữu cho thấy, Giáo Hội bao giờ cũng coi trọng việc tôn sùng đối với
Mẹ Maria, coi nó có liên hệ bất khả phân lý với niềm tin tưởng vào Chúa Kitô.
Thật vậy, nó được căn cứ vào dự án của Chúa Cha, ý muốn của Chúa Cứu Thế và thần
hứng của Đấng Cầu Bầu.
Lãnh nhận ơn cứu độ và ân
sủng từ Chúa Kitô, Đức Trinh Nữ được kêu gọi đóng một vai trò quan trọng trong
việc cứu chuộc loài người. Qua lòng tôn sùng Thánh Mẫu, Kitô hữu nhìn nhận
giá trị của việc Mẹ Maria hiện diện trong cuộc hành trình của họ tiến đến ơn cứu
độ, khi chạy đến cùng Mẹ để được hết mọi loại ân sủng. Nhất là họ biết rằng họ
có thể tin tưởng cậy trông vào việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ để nhận được từ
Chúa hết mọi sự cần thiết cho việc tăng trưởng trong đời sống thần linh cũng như
cho việc chiếm đạt ơn cứu độ đời đời.
Như nhiều tước hiệu được
qui cho Đức Trinh Nữ và các cuộc hành hương liên tục đến các đền Thánh mẫu chứng
thực, niềm tin tưởng của tín hữu nơi Người Mẹ của Chúa Giêsu đang thôi thúc họ
kêu cầu mẹ cho các nhu cầu hằng ngày của họ.
Họ tin tưởng rằng trái
tim từ mẫu của Mẹ không thể dửng dưng lạnh lùng trước tình trạng buồn thương về
thể lý và tinh thần của con cái Mẹ.
Bằng việc phấn khích niềm
cậy trông và tính tự phát của tín hữu, lòng tôn sùng Người Mẹ của Thiên Chúa nhờ
vậy giúp làm rạng ngời đời sống thiêng liêng của họ và giúp họ có thể tiến bộ
trên con đường gay go của các mối Phúc Đức.
4- Sau hết, chúng ta muốn
nhắc nhở rằng lòng sùng kính Mẹ Maria, bởi đề cao chiều kích nhân loại của mầu
nhiệm Nhập Thể, giúp chúng ta nhận thức hơn nữa dung nhan của một vị Thiên Chúa
chia sẻ các niềm vui và nỗi khổ của nhân loại, vị "Thiên Chúa ở cùng chúng ta",
Đấng Mẹ đã thụ thai như một con người trong cung lòng tinh tuyền nhất của Mẹ, đã
hạ sinh, chăm sóc và theo dõi bằng một tình yêu khôn tả từ những ngày của Người
ở Nazarét và Belem đến những ngày của Thập Giá và Phúc Sinh.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL, chuyển dịch
http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/audiences/1997/documents/hf_jp-ii_aud_05111997_en.html
|