Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Tiến Trình Tín Điều Mẹ Vô Nhiễm Thai
|
|
Thứ Bảy, Ngày 8 tháng 12-2018
|
TIẾN TRÌNH
TÍN ĐIỀU MẸ VÔ NHIỄM THAI
Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội từ
thuở đầu thai, nói tắt là
"Đức Mẹ vô nhiễm thai". "Thai" nói
đầy đủ là "thụ thai"
(conception). Thụ thai phân biệt ra thụ
thai chủ động (active conception) là việc người
mẹ hoài thai đứa con, và thụ thai thụ động
(passive conception) là việc người con được thụ
thai. Do đó, khi nói đến Immaculate Conception là không phải
nói đến Thánh Anna thụ thai Đức Trinh Nữ
Maria, hay là Đức Trinh Nữ Maria thụ thai Chúa Giêsu,
nhưng là nói đến Đức Trinh Nữ Maria
"được thụ thai, hay là được dựng
thai, hoặc là đầu thai" trong lòng Thánh Anna. Cũng
có khi người ta chỉ nói "Đức Mẹ Vô nhiễm"
thì hiểu là "Đức Mẹ Vô nhiễm từ thuở
đầu thai" hay là "Đức Mẹ đầu
thai vô nhiễm" hoặc là "Đức Mẹ Vô nhiễm
thai".
Vấn đề "Đức Mẹ Vô
nhiễm thai" thoạt tiên là một hạt giống
được giấu ẩn trong kho mạc khải Thánh
kinh và Thánh truyền, rồi trải qua niềm tin của
Giáo hội biến thành Nụ Tín lý. Nhưng Nụ Tín lý trải
qua nhiều chông gai, nhiều sương tuyết lạnh
lùng, nhờ sự diễn giải của các Thánh Giáo phụ,
các nhà thần học và sự phán quyết của Thẩm
quyền Giáo hội mới nở tươi thành Tín điều.
Xét về phương diện tiến triển,
Tín điều "Đức Mẹ Vô nhiễm thai" đã trải qua một tiến trình
rất phức tạp, nhưng được giản
lược qua 3 giai đoạn: giai đoạn trầm lặng,
giai đoạn tranh luận, và giai đoạn xác nhận.
A. Giai đoạn trầm lặng từ thế
kỷ I đến thế kỷ XI
Thánh kinh chỉ có kiểu nói mặc nhiên ẩn
tàng về vấn đề Vô nhiễm, nên trong những thế
kỷ đầu, Giáo hội chưa khám phá ra. Tuy nhiên, từ
thời các Thánh Tông đồ qua thời các Thánh Giáo phụ
trong những thế kỷ đầu, một ít tia sáng "Vô nhiễm" đã loé lên,
nhưng chỉ trong phạm vi cá nhân. Năm 416 Công đồng
Carthage và Công đồng Mileviô ở Bắc Phi lên án Pelagiô
và Coelestiô chối tội nguyên tổ, mà không đề cập
gì đến trường hợp của Đức Mẹ.
Năm 431 Công đồng Êphêsô ở Tiểu Á cùng với
Thánh Cyrillô Alexanđria luận phi bè rối Nestoriô, để
tuyên tín Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Từ đó,
lòng sùng kính Đức Mẹ dâng lên cao và tràn lan
ra xa rộng. Giáo hội cũng chỉ xác nhận
sự trinh trong tuyệt đối của Mẹ. Khi
người ta bàn luận về vấn đề tội lỗi,
Thánh Augustinô không muốn liên tưởng đến Đức
Mẹ. Tư tưởng tiêu cực này đã nên như qui
luật cho các Giáo phụ thời đó. Bên Đông
phương, người ta nồng nhiệt sùng kính phúc
vinh quang Mẹ Thiên Chúa, mà không xác định rõ. Đến
thế kỷ VII, bốn vị Giáo hoàng: Đức Honoriô I,
Đức Thánh Martinô I, Đức Thánh Agathô, và Đức
Thánh Lêô II làm loé lên một vài tia sáng
nhưng vẫn ở trong phạm vi hạn hẹp.
B. Giai đoạn tranh luận từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIV
Thế kỷ XII, nhà thần học Eadmer sử
gia của Thánh Anselmô tại Canturbury (Anh) viết cuốn
"Yếu luận về sự đầu thai thánh thiện
của Đức Maria" để minh xác ý nghĩa đặc
ân làm nền tảng cho Tín lý Vô nhiễm. Eadmer lý luận sâu
sắc về việc Mẹ được đặc ân Vô nhiễm với ba lời có tính cách Cách
ngôn: Potuit, Decuit, Fecit, nghĩa là Thiên Chúa có thể làm; nếu
Người muốn thì Người đã làm. Cũng thời đó, văn sĩ Osbertô Clare đầu
tiên vận động truyền bá giáo thuyết này.
Đông phương đã mừng lễ Mẹ đầu thai từ thế kỷ VII, nhưng
Tây phương mừng lễ này thế kỷ XII. Dẫu
thế, một bức màn đen vẫn trùm phủ vấn
đề Vô nhiễm, đến nỗi bốn vị Thánh
tiến sĩ Bênađô, Albertô, Bônaventura, Tôma, và hai nhà thần
học nổi danh Rupertô và Alexanđrô Halès cho rằng Đức
Mẹ cũng mắc luật lưu truyền nguyên tội
như mọi người dòng dõi Ađam. Thánh
Tôma chỉ nói Đức Maria được thánh hoá trong
lòng mẹ. Về sau, các ngài mới bỏ tư kiến
để thuận theo sự phán quyết
của các Đức Giáo hoàng và niềm tin của Giáo hội.
Hai luồng tư tưởng nghịch và
thuận vấn đề Vô nhiễm lan
tràn sâu rộng gây nên một cuộc tranh luận sôi nổi
giữa hai trường phái Tôma và Scôtô tại Avignon
(Pháp) năm 1325. Phe thuận là trường
phái Scôtô có luận cứ vững mạnh, nên được
Đức Gioan XXII tán thành, và được Đại học
Paris yểm trợ. Năm 1346 tại phân khoa Thần
học Đại học này, không ai được đậu
cử nhân, tiến sĩ, nếu không tuyên thệ phải ủng
hộ giáo thuyết Vô nhiễm. Sau này hai
Đại học Cologne và Mayence noi gương Đại học Paris cũng có qui chế như thế. Còn một cuộc tranh luận khác không kém gay go
về vấn đề Vô nhiễm. Phe chống gây ảnh
hưởng sâu rộng nhất là miền Bắc Ý,
nhưng sau cũng thuận theo, nhờ
thái độ cương quyết của Đức Sixtô
IV.
C. Giai đoạn xác nhận từ thế
kỷ XIV đến thế kỷ XIX
Năm 1377 cuộc Đức Mẹ mạc
khải với Thánh Brigitta được Đức
Grêgôriô XI thẩm tra và xác nhận là chân thật. Đức
Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ
đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ.
Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ
đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội
tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ
ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giỡ".
Năm 1431, Công đồng Basel (Thụy
sĩ), công bố một sắc lệnh như sau:
"Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức
Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa
giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội,
nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm".
Đức Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu
tiên minh nhiên xác định vấn đề Vô nhiễm bằng
cách ban hành mười sáu Hiến chế về Mẹ Maria
Vô nhiễm. Trong số đó, mười hai
Hiến chế ban ân xá, bốn Hiến chế thiết lập
và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo hội.
Năm 1545, Công đồng Trentô do Đức
Phaolô III triệu tập, công bố sắc lệnh có ba khoản
nói về Mẹ Vô nhiễm:
1. Đức Maria được miễn trừ
khỏi luật chung của Nguyên tội.
2. Đức Maria được gọi là
Vô nhiễm. Ý nghĩa danh từ này phải
được xác định là khỏi mọi vết
nhơ, mà vết nhơ là Nguyên tội. Do đó, gọi
Mẹ là Vô nhiễm vì Mẹ đầu thai
vô nhiễm nguyên tội.
3. Các Hiến chế của
Đức Sixtô IV phải được tôn trọng.
Năm 1567 Đức Thánh Piô V ban hành ba
văn kiện về Mẹ Vô nhiễm. Văn kiện thứ
nhất luận phi những lầm lạc của Baius cho rằng
tin Đức Mẹ vô nhiễm thai là rối
đạo.
Đức Clêmentê VIII ca ngợi, khích lệ
và cho phát hành cuốn giáo lý do Thánh Bellarminô soạn, trong
đó có câu:
H. Đầy ơn phúc nghĩa là gì?
T. Đức Mẹ đầy
ơn phúc, vì Người không hề mang vết nhơ tội
lỗi, dù là Nguyên tội hay hiện tội, tội trọng
hay tội hèn.
Đức Grêgôriô XV ban hành sắc lệnh
có một điều đáng chú ý:
Những ai phủ nhận Đức Mẹ
Vô nhiễm phải tuyệt đối im lặng, vì sinh
gương mù và chia rẽ giữa Giáo hội. Mẹ Maria
đầu thai mà mắc tội là điều
xúc phạm đến niềm tin của tín hữu. Tuy nhiên, được giữ tư kiến cho
mình, vì vấn đề chưa được chính thức
xác định.
Đức Alexanđrô VII là vị Giáo hoàng quan trọng thứ
nhì sau Đức Piô IX trong việc định tín Mẹ Vô
nhiễm. Trọng sắc
"Sollicitudo Omnium Ecclesianum" của ngài có ba điều
quan trọng:
1. Niềm tin Mẹ Maria Vô nhiễm là quan
điểm đạo đức (Pia sententia).
2. Sự đầu thai
nói về Mẹ Maria có nghĩa là Vô nhiễm.
3. Ngài giải thích các sắc lệnh của
các vị tiền nhiệm xác nhận Mẹ Vô nhiễm.
Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra ban
cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời
nguyện vắn tắt: "Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm
nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi
chạy đến cùng Mẹ".
Đức Grêgôriô XVI, vị tiền
nhiệm của Đức Piô IX, đã dọn đường
rất gần để tiến tới việc định
tín. Ngài ban phép cho 133 giáo phận
và hội dòng thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ
Vương chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu
cho chúng con". Sau này Đức Piô IX mới ấn
định câu này trong kinh cầu Đức Bà cho khắp Giáo
hội. Lòng sùng kính Mẹ Vô nhiễm đặc biệt
của ngài ảnh hưởng sâu rộng trong Giáo hội.
Từ năm 1840 đến 1844 có 86 đơn thỉnh nguyện
xin định tín của các Hồng y, Giám mục nước
Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, và Trung Hoa, và năm 1849 thêm các
đơn thỉnh nguyện của Công đồng
Baltimore, Hoa kỳ.
Đức Piô IX đã được Thiên
Chúa tuyển chọn để định tín Mẹ Vô nhiễm
thai, nên lịch sử gọi ngài là Giáo
hoàng của Mẹ Vô nhiễm. Từ năm 1846 đến
1849 có thêm 130 đơn thỉnh nguyện, nên ngài quyết
tâm tiến hành:
Ngày 1-6-1848 ngài triệu
tập Hội đồng Tư vấn gồm các nhà thần
học nổi danh, với sứ mệnh thẩm xét vấn
đề. Hội đồng Tư vấn biểu
quyết tâu xin định tín.
Ngày 22-12-1848 một Hội đồng Tiền
chuẩn bị gồm tám Hồng y và năm cố vấn
họp tại Naples dưới quyền chủ toạ của
Đức Hồng y Lambruschini. Hội đồng tâu xin Đức Thánh Cha gửi
một thông điệp cho các Giám mục xin cầu nguyện
và hỏi ý kiến.
Ngày 2-2-1849 Đức
Thánh Cha liền ban hành Thông điệp "Ubi Primum".
Ngài nhận được 603 thư hồi
âm tâu xin định tín hoặc xin tùy sự quyết định
của Đức Thánh Cha. Với đủ yếu tố
trong tay, Đức Piô IX họp Cơ mật
viện gồm các Hồng y để quyết định
lần cuối cùng và ngài viết Thông điệp
"Ineffabilis Deus".
D. Tuyên tín
Ngày 8-12-1854, tại đại đền
Thánh Phêrô, trước mặt 54 Hồng y, 42 Tổng Giám mục,
92 Giám mục, 300 các viên chức sắc gồm cả ngoại
giao đoàn, cùng với chừng 50,000 linh mục, tu sĩ,
và giáo dân từ nhiều quốc gia, Đức Piô IX trịnh
trọng tuyên bố thông điệp bất hủ
"Ineffabilis Deus", và với một giọng
cương quyết oai nghiêm, ngài tuyên tín: "Do uy quyền
của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông
đồ Phêrô và Phaolô, và của riêng Ta, Ta xác nhận, tuyên
ngôn và định tín rằng: Rất Thánh Trinh Nữ Maria từ
phút đầu thai đã được gìn giữ Vô nhiễm
khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, do đặc ân
của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa
Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân thế. Tín lý này đã được Thiên Chúa mạc khải.
Do vậy, tất cả mọi tín hữu phải tin kiên vững".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, tức
thì bài thánh ca "Te Deum" cùng với âm nhạc và tiếng
chuông đại đền thánh Phêrô vang lên trầm hùng, biểu
lộ niềm phấn khởi hân hoan từ ngàn vạn con
tim dào dạt sung sướng trước bước vinh
quang của Mẹ Vô nhiễm. Đồng thời, bên ngoài,
từng loạt đại bác tại lâu đài Thiên thần
nổ vang trời, nhịp với chuông tất cả các
đền thờ thành Rôma đổ hồi ngân vang reo mừng
Mẹ. Các lâu đài, dinh thự và tất cả các tư
gia đều kéo cờ tưng bừng, và đêm đến
thì trưng đèn rực sáng để ghi dấu một biến
cố vinh quang cho Mẹ Vô nhiễm và vẻ vang cho toàn thể
Giáo hội.
Sau bốn năm, năm 1858,
Đức Mẹ hiện ra với Thánh Bernađetta tại
Lộ Đức nước Pháp. Mẹ xưng mình "Ta là Đấng Vô nhiễm
thai" để xác nhận điều
tuyên tín của Đức Piô IX.
Năm 1846 công đồng giáo
tỉnh Baltimore cung hiến Giáo hội Hoa Kỳ
cho Đức Mẹ Vô nhiễm.
Và đền thánh Mẹ Vô nhiễm bổn mạng toàn quốc
đã được xây cất tại Washington, D.C. Tại
Việt Nam, từ năm 1855 đến năm 1862 dưới
triều vua Tự Đức, việc cấm đạo khủng
khiếp ác liệt hơn hết. Riêng giáo phận
Bùi Chu và Hải Phòng đã có trên 2,000
người chết vì đạo. Bởi vậy, các thừa sai Tây Ban Nha tại
Giáo phận Bùi Chu khấn dâng giáo phận cho Đức Mẹ
Vô nhiễm và khấn hứa Đức Mẹ ban ơn bình
an, giáo phận sẽ dâng kính Đức Mẹ một đền
thờ rộng lớn. Quả thật đến
năm 1888, phong trào cấm đạo chấm dứt.
Nhưng mãi đến năm 1916 Giáo phận Bùi Chu mới
khởi công kiến thiết đền thờ Đức
Mẹ Vô nhiễm đồ sộ nguy nga kiểu Gothic bậc
nhất Đông Dương tại Phú Nhai gần Bùi Chu, tới
năm 1923 mới khánh thành, năm 1929 bị bão đổ,
và năm 1933 được trùng tu uy hùng cho tới ngày nay.
Trải qua nhiều khó khăn sau bao thế
kỷ, và nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh qua Thánh kinh và
Thánh truyền, Giáo hội đã đính thêm viên bích ngọc
"Vô nhiễm" sáng chói trên vương miện Thiên Mẫu
của Mẹ Maria. Chúng ta hãy vui mừng cảm
tạ Chúa và Giáo hội, cách riêng Đức Sixtô IV và Đức
Piô IX. Với hết tình ngoan thảo,
chúng ta hãy hoan hỉ ca mừng chúc tụng Mẹ Vô nhiễm,
đặc biệt trong dịp lễ tôn vinh Người.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Đông phương đã mừng lễ Mẹ
Vô nhiễm từ thế kỷ VII. Bên Tây phương, Osbertô Clare, một văn sĩ
và thi sĩ người Anh, tiên phong vận động mừng
lễ Mẹ Vô nhiễm tại Anh hồi thế kỷ
XII. Từ Anh lễ này lan nhanh sang Normandie và toàn nước
Pháp rồi sang Ý. Năm 1215 các giáo phận nước Pháp
được Đức Innocentê III ban phép đầu tiên
mừng lễ Mẹ đầu thai. Quãng năm 1241 hay 1242,
vì lý do chính trị do Vua Philippe II nước Pháp, Đức
Bonifaciô VIII dời giáo triều xuống thành Anagni là nguyên
quán của ngài và mừng lễ Mẹ đầu thai tại nhà thờ chính toà. Năm
1263, Đại Công hội Dòng Phanxicô tại Pise (Ý) ấn
định mừng lễ này trong toàn dòng. Đến đời Đức Clêmentê V, vì ảnh
hưởng của Vua Philippe II, ngài đặt giáo đô tại
Avignon (Pháp). Cả
giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai
ngày mồng 8 tháng 12 tại nhà thờ Dòng Carmelô. Từ
đây, hằng năm giáo triều mừng lễ Mẹ
đầu thai và tiếp tục khi trở
về Rôma, các Đức Giáo hoàng cũng đích thân tham dự.
Năm 1385, sử gia Bellemer và mấy năm sau sử gia
Francis Martin còn thấy Đức Giáo hoàng, các Hồng y, Giám
mục mừng lễ Mẹ đầu thai tại nguyện
đường trong điện Vaticanô.
Thời đó lễ Mẹ đầu thai chỉ có ý nghĩa suông là Đức Mẹ
đầu thai thánh thiện trong lòng Bà Thánh Anna. Vấn
đề Vô nhiễm chưa được đưa ra khảo
sát, và Toà thánh cũng chưa xét đến điểm tín
lý.
Năm 1325 tại Avignon, Đức Gioan XXII
chứng giám cuộc tranh luận sôi nổi giữa các linh
mục Dòng Phanxicô và Dòng Đaminh về vấn đề Vô
nhiễm. Chung cuộc, ngài tuyên bố luận cứ bên
Phanxicô đáo lý hơn và có ưu thế hơn, nên ngài truyền
dạy mừng lễ Mẹ đầu thai rất trọng
thể tại nguyện đường của ngài,
nhưng ngài không xác định vấn đề Vô nhiễm.
Công đầu tiên thiết lập lễ Mẹ
Vô nhiễm là Đức Sixtô IV, một tu sĩ Phanxicô.
Năm 1476, ngài dạy Lêonardô Nogarolis soạn
kinh lễ với tuần tám. Ngày 27-2-1477, ngài ban hành Trọng sắc "Cum prae-celsa"
long trọng thiết lập lễ Đức Mẹ Vô nhiễm.
Ngày 4-10-1480, Đức Thánh Cha ban hành Đoản sắc
"Libenter" chuẩn nhận Giờ kinh và Bài lễ Mẹ
Vô nhiễm do cha Bernadino de Bustis, OFM, soạn thảo.
Năm 1482 và 1483 nổi lên những phản
ứng tại miền Lombardy, Bắc Ý, tuyên truyền rằng
tin và chủ trương Đức Mẹ Vô nhiễm thai
là rối đạo, Đức Sixtô IV ban hành thêm hai Tiền
và Hậu đoản sắc "Grave nimis" để chặn
đứng luồng tư tưởng lầm lạc
đó.
Đức Lêô X tán thành và xác nhận
những văn kiện của Đức Sixtô IV. Với Trọng sắc "Sacrosanctae", ngài
truyền dạy nước Balan mừng lễ Mẹ
đầu thai như ở Rôma, và ban phép Giáo hội Tây Ban
Nha tổ chức lễ Mẹ Vô nhiễm nửa đêm
ngày 8 tháng 12. Đức Thánh Piô V truyền dạy toàn thể
Giáo hội mừng lễ Mẹ đầu thai.
Giờ kinh ngày lễ thì lấy giờ kinh lễ Sinh nhật
Mẹ, và đặt chữ "Đầu thai"
thay chữ "Sinh nhật". Riêng Dòng
Phanxicô được dùng giờ kinh Bài lễ của
Nogarolis đời Đức Sixtô IV.
Các Đức Giáo hoàng Sixtô V, Grêgôriô XV,
Clêmentê IX, Bênêđictô XIV, Clêmentê XIII, Clêmentê XIV, Piô VI, và Đức
Piô VII ban phép mừng lễ Mẹ Vô nhiễm cho từng
quốc gia, từng giáo phận, từng dòng tu. Riêng Đức
Grêgôriô XVI trong vòng mười năm ban phép cho 211 giáo phận
và dòng tu mừng lễ Mẹ Vô nhiễm, và thêm danh từ
"Vô nhiễm" vào kinh Tiền tụng lễ Mẹ
đầu thai. Đức Clêmentê XI, với trọng sắc
"Commissioni nobis" năm 1708 truyền dạy lễ Mẹ
Vô nhiễm là lễ buộc trong khắp Giáo hội.
Đức Piô IX, ngày 30-9-1847, ngài ký sắc lệnh
của Thánh bộ Lễ nghi ban phép đọc Giờ kinh
và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm cho chính ngày lễ và cả tuần
tám, bắt đầu cho giáo phận Rôma và hai năm sau cho
toàn thể Giáo hội. Năm 1863 là sau chín năm
định tín Mẹ Vô nhiễm, ngài qui định Giờ
kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm "Gaudens Gaudebo - Tôi sẽ
hớn hở vui mừng" như ta thấy ngày nay.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Giáo hội đã tuyên tín Mẹ Maria đầu
thai vô nhiễm và long trọng mừng lễ Mẹ Vô nhiễm
để cảm tạ Chúa Ba Ngôi rất thánh đã tiền
định tuyển chọn Mẹ với một đặc
ân lạ lùng, chuẩn bị cho phẩm chức và sứ mạng
của Mẹ, đồng thời để ngợi khen
chúc tụng Mẹ cao sang hơn mọi bậc thần thánh
và toàn thể loài người.
Giáo hội long trọng mừng lễ Mẹ
Vô nhiễm với năm lý do thần học theo Thánh Tôma:
1. Nếu lúc nào đó mắc tội, Mẹ
Maria không xứng đáng là Mẹ Thiên Chúa, vì "cha mẹ
là sự hãnh diện của con" (xem Cn 17:6). Do đó, nếu
Mẹ mắc nguyên tội, ánh vinh quang của Chúa bị lu mờ trước mặt các thần thánh.
2. Giữa Chúa Giêsu và Mẹ có
một mối liên hệ chặt chẽ. Chúa và Mẹ cùng một vinh quang,
nên Mẹ cần phải sạch mọi tội lỗi, nhất
là nguyên tội.
3. "Cha đã cho con việc xử án"
(Ga 5:22). Nếu Mẹ Maria sa phạm
tội lỗi hoặc nguyên tội, thì theo đức Công bằng,
Chúa phải xử án luận phạt Mẹ. Nhưng có lẽ
nào Chúa để Mẹ sa phạm để đoán phạt
Người!
4. Thánh Phaolô gọi thân xác chúng
ta vì ô nhiễm nguyên tội là thân xác tội lỗi (Rm 6:6). Nếu Mẹ mắc nguyên tội,
thân xác Mẹ sẽ là thân xác tội lỗi, thì làm sao xứng
với thân xác Chúa Giêsu ngôi hiệp với bản tính Thiên
Chúa?
5. Vẻ đẹp của Mẹ
"mười phân vẹn mười" luôn luôn và mãi mãi
đẹp. Mẹ đẹp từ lúc đầu thai và luôn mãi đẹp. Trước
khi sinh ra, sau khi sinh ra, không một tuổi nào, không một
lúc nào trong đời Mẹ, mà Mẹ không luôn luôn hoàn toàn
đẹp đẽ.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Sáng thế 3:9-15, 20
Đoạn văn này ám chỉ Mẹ Maria
là Tân Evà. Các Thánh Giáo phụ từ Thánh Giustinô
nhìn thấy trong thánh truyện Truyền tin sự phản
ngược quá trình tội lỗi trong vườn địa
đường. Bà Evà là mẹ chúng sinh, vì nghe mưu
chước con Rắn hoả ngục đã lỗi phạm
giới răn Thiên Chúa ăn trái cấm
và trao cho ông Ađam cùng ăn. Tội phạm
này đã làm cho ông bà phải khiếp sợ, xấu hổ,
và nhận chìm toàn thể loài người xuống hố
đoạ trầm. Trái lại, Đức Trinh Nữ
Maria là Tân Evà cũng là Mẹ chúng sinh vì nghe theo Thiên sứ,
xin vâng lời Thiên Chúa dấn thân vào sứ mạng Đồng
công cùng với Chúa Cứu Thế cứu thoát loài người
khỏi hố đoạ trầm mà được
thăng tiến vinh phúc. Như vậy bà Evà đã bị con
Rắn đánh thảm bại, thì Tân Evà đã đạp
nát đầu Rắn, chiến thắng nó một cách vẻ
vang, mà cuộc chiến thắng đầu tiên là được
đặc ân Vô nhiễm.
Bài đọc II: Êphêsô 1:3-6, 11-12
Đầu thư này trình bày thánh lệnh
muôn đời của Thiên Chúa là mầu nhiệm đã
được giấu kín qua các thời đại, rồi
được tỏ ra trong Chúa Kitô. Đức Gioan Phaolô
II áp dụng tư tưởng này vào Mẹ Maria: "Mầu
nhiệm Mẹ Maria chỉ được tỏ rõ trong mầu
nhiệm Chúa Kitô" (RM, 4). Thiên Chúa đã tuyển
chọn Mẹ từ muôn thuở để Mẹ nên thánh
thiện và vô tì tích trước mặt Người.
Cùng với Đức Gioan Phaolô II, chúng ta có thể thấy
rằng ơn thánh đã làm cho toàn thể con người Mẹ
Maria nên cao cả xinh đẹp phi thường (RM, 11).
Phúc âm: Luca 1:26-38
Bài Phúc âm này được tuyên đọc
ngày lễ Mẹ Vô nhiễm, vì lời thiên sứ "kính
chào Bà đầy ơn phước" tỏ ra rằng
Đức Trinh Nữ Maria được dư tràn ơn
phúc do đặc ân Vô nhiễm như Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II giải thích: đầy ơn phúc nghĩa là Vô
nhiễm (18-12-84). Lời thiên sứ quả quyết "Thiên
Chúa ở cùng Trinh Nữ" chứng tỏ Trinh Nữ
được đẹp lòng Thiên Chúa, được Thiên
Chúa tuyển chọn vào một chức phẩm siêu việt
và một sứ mạng cao cả. Trước một
ơn thánh cao dầy do lòng Chúa yêu thương và trước
một viễn tượng huy hoàng rực rỡ như thế,
Trinh Nữ Maria càng hạ mình sâu thẳm, càng trung kiên với
đức Đồng trinh, càng được đẹp
lòng Thiên Chúa. Do vậy, Thiên Chúa đã thực hiện
nơi Người mầu nhiệm Nhập thể Cứu
chuộc.
Lm. Phero CMC
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|