Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Lễ Mẹ Đau Thương (15/9) --- Phải Chăng Danh Xưng “ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc” Sẽ Trở Thành Tín Ðiều?
|
|
Thứ Sáu, Ngày 15 tháng 9-2017
|
Phải
Chăng Danh Xưng “Ðức Mẹ Ðồng Công Cứu Chuộc”
Sẽ Trở Thành Tín Ðiều? (5)
LM Phaolô Nguyễn Văn Tùng 8/15/2011
Vietcatholic.org
--------------------------------------------------------------------------------
Phải Chăng Danh Xưng “Ðức Mẹ Ðồng
Công Cứu Chuộc” Sẽ Trở Thành Tín Ðiều? (5)
Tuần san Newsweek số ra ngày 25/8/1997 đã
đăng bài của Kenneth L. Wooward - viết cùng với
Andrew Murr, Christopher Dickey, Eric Larson, Sarah Van Boven, và Hersch Doby -
dưới tựa đề “Hail, Mary” (Kính mừng Maria).
Trong bài này Woodward và nhóm cùng viết với ông đã trình bày
tương đối khách quan về một phong trào đặc
biệt - có tên là “Vox Populi Mariae Mediatri, tạm dịch là: Tiếng
dân yểm trợ Đức Maria Đấng Trung Gian” -
đã gửi thỉnh nguyện thư lên Chân Phúc Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, xin ngài dùng quyền Bất Khả Ngộ
(Infallibility) để công bố một tín điều
(dogma) mới về Ðức Mẹ Maria, nhân dịp giáo hội
đi vào thiên kỷ thứ ba, và mừng Ðại Năm
Thánh, năm 2000. Tín điều này sẽ xác định ba
điều: Ðức Mẹ Ðồng Cứu Chuộc nhân loại
với Chúa Kitô (Co-Redemptrix, chữ này đã được
nhiều người dịch qua tiếng Việt là “Ðồng
Công Cứu Chuộc.” Xin trở lại vấn đề
đó sau), Ðức Mẹ là Ðấng Trung Gian của mọi ân sủng (Mediatrix of all Graces), và Ðức Mẹ
là Ðấng Bào Chữa cho Dân Chúa (Advocate for the People of God).
Woodward, qua tài liệu do ông Mark Miravalle - giáo
sư môn thần học của trường đại học
Franciscan ở Steubenville, Ohio - cung cấp, cho biết rằng
trong bốn năm trước đó đã có những thỉnh
nguyện thư mang trên bốn triệu chữ ký của
giáo dân Công giáo, gửi từ 157 quốc gia lên Ðức Thánh
Cha (ĐTC) Gioan Phaolô II. Trong số những thỉnh nguyện
viên này đã có gần 500 Ðức Giám Mục, 42 Ðức Hồng
Y kể cả các ÐHY John O’Connor (RIP) của New York
và Joseph Glemp của nước Ba Lan, cộng
thêm sáu vị khác, lúc đó đang phục vụ trong điện
Vatican. Ngoài ra còn có thêm chữ ký của Mẹ Têrêsa ở
Calcutta (RIP) và nữ tu Angelica, sáng lập viên đài truyền
hình Công Giáo EWTN ở Birmingham, tiểu bang Alabama, Mỹ.
Tuy nhiên, cơ quan ngôn luận chính thức của
điện Vatican, tờ L’Osservatore Romano, loan tin trong tháng
6/97 rằng ÐTC đã cho thành lập một ủy ban gồm
23 nhà thần học về Ðức Maria (Mariologists), để
nghiên cứu, thảo luận và đề nghị câu trả
lời cho thỉnh nguyện nói trên. Nhiều người
đã nghĩ rằng ủy ban gồm toàn những “chuyên
viên” về Thánh Mẫu học này sẽ nhanh chóng chấp
thuận thỉnh nguyện. Nhưng thật là một ngạc
nhiên khi tất cả 23 vị đã cùng đề nghị
ÐTC không nên công bố tín điều mới này, họ viện
lẽ rằng những điều được thỉnh
nguyện đã đi ngược lại với giáo huấn
của Công Ðồng Vatican II; hơn nữa, một tín điều
về Ðức Maria như vậy sẽ phá đổ tất
cả mọi thành quả đạt được trong nỗ
lực hòa giải với các giáo hội Tin Lành suốt ba thập
niên trước đó.
Thực sự, vấn đề không thể
coi là đơn giản vì chính Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
là một trong những ÐGH sùng kính Ðức Mẹ nhất
trong lịch sử giáo hội. Ngài đã xác tín rằng Ðức
Mẹ Fatima đã cứu ngài thoát chết trong cuộc ám sát
vào ngày kỷ niệm Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima, 13 tháng 5,
năm 1981. Trong các Tông Thư hay Thư Mục Vụ, ngài
luôn luôn chúc tụng Ðức Mẹ và thường dùng những
từ như Ðấng Trung Gian, Ðấng Bào Chữa hay ngay cả
Ðấng Ðồng Cứu Chuộc để tôn vinh Ðức Mẹ.
Tháng 5/1997, trong cuộc triều yết chung ở quảng
trường thánh Phêrô, ÐTC đã đi ra ngoài Kinh Thánh để
tuyên xưng rằng chính Ðức Mẹ là người đầu
tiên đã nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại. Ngài thêm rằng
tuyên xưng điều này rất “phù hợp” (fitting) với
vai trò của Ðức Mẹ.
Hơn nữa, Woodward và nhóm của ông đã
viết thêm về những hiện tượng hiện ra
và ảnh hưởng sâu rộng của Ðức Mẹ trong
lịch sử giáo hội. Ðể tôn vinh Ðức Mẹ,
người ta đã xây những đại vương cung
thánh đường lừng danh trên thế giới như
Nôtre Dame ở Paris, Hagia Sophia ở Constantinople, và Santa Maria
Maggiore ở Roma. Qua Ðức Mẹ, những
đại thi sĩ như Villon và Dante, đến Hopkins, Eliot, và Auden (ngay cả nhà thơ
Hàn Mặc Tử của Việt Nam) đã tìm ra nguồn cảm hứng
cho thi tác của họ. Trong lãnh vực
âm nhạc, không tuyệt tác nào về Ðức Mẹ hay
hơn khúc “Ave Maria” của Schubert. Các tuyệt phẩm về
họa đa số đều vẽ cảnh Truyền Tin
và cảnh Ðức Mẹ bồng Ðức Chúa Con.
Thế kỷ XX phải được gọi
là thế kỷ của Ðức Mẹ. Hầu như khắp
các lục địa người ta đã bá cáo trên 400 cuộc
“hiện ra” của Ðức Mẹ (tài liệu của
Miravalle), nhiều hơn là tổng số lần hiện ra
của ba thế kỷ trước cộng lại. Những
thông điệp này được phong trào nói trên, mà
Miravalle là một trong những người chủ
trương, diễn giải rằng đã nói lên thiên kỷ
sắp tới là thời đại của Ðức Mẹ
(Age of Mary) mà tín điều do ÐTC công bố sẽ xác định
sự “hiền mẫu trung gian” (maternal mediation) của Ðức
Mẹ giữa Thiên Chúa và loài người. Phong
trào đã thêm Medjugorje (cựu Nam Tư) là địa điểm
hành hương cùng với Fatima và Lourdes (Lộ Ðức), mặc dù các sự hiện ra ở
Medjugorje đã chưa được giáo hội chính thức
công nhận. Tuy nhiên, số
người được nhận “thông điệp” mỗi
ngày một nhiều hơn và hầu như đã trở
thành “lạm phát” khiến nhiều người trở nên
hoang mang.
Ở lãnh vực khác, những kẻ thích
làm chính trị trong giáo hội cũng đang cố “kéo” Ðức
Mẹ về phía của mình. Nhóm phụ nữ đòi quyền
bình đẳng (feminists), 20 năm trước đã gạt
Ðức Mẹ ra ngoài và gọi Mẹ là “Ðức Mẹ Ðồng
Trinh Ðàn Áp” (Oppressive Virgin Mother) do hàng giáo phẩm tạo nên,
thì nay đã trở giọng tuyên xưng Ðức Mẹ là một
“phụ nữ tự do” (free woman) đã chọn sự “xin
vâng” với Chúa trong cuộc truyền tin, trong khi bà Eve chọn
sự bất tuân lệnh của Chúa trong vườn địa
đàng. Nhờ sự “xin vâng” này của Ðức
Mẹ (một phụ nữ) mà đã có lịch sử
ơn cứu rỗi. Cả những nhà “thần học
giải phóng” thuở đó cũng “tìm thấy” một Ðức
Maria khiêm nhường và là một biểu tượng của
Chúa đang “đứng về phía những người
nghèo.”
Nhóm viết bài cùng với ông
Woodward đã đi xa hơn và diễn giải rằng bí mật
về sức mạnh (hay ảnh hưởng) nhiệm mầu
của Ðức Mẹ có lẽ vì Ðức Mẹ không có một
lịch sử riêng cho mình. Ðức
Mẹ đã “lôi cuốn” (entices) từng thế hệ mới,
hình dung về Mẹ. Các thánh sử cũng chỉ viết
sơ sài về Ðức Mẹ. Mác-cô cho rằng Ðức Mẹ
đã không hiểu hay không đồng ý về những việc
Chúa đang làm; Mát-thêu ghi nhận cuộc giáng sinh; Luca trình
bày Ðức Mẹ như một tì nữ trung tín của Chúa
và là phát ngôn nhân của những kẻ lạc loài (outcast).
Trong Phúc Âm của thánh Luca, Ðức Mẹ đã được
tuyên xưng là “đầy ơn phúc” và “mọi thế hệ
sẽ gọi Mẹ là có phúc.” Trong Phúc Âm của
thánh Gioan, chỉ một lời yêu cầu của Ðức Mẹ
mà Chúa đã biến nước thành rượu, phép lạ
đầu tiên. Cũng thánh Gioan đã ghi
lại việc Ðức Mẹ đã đứng dưới
chân thánh gía, chứng tỏ Mẹ cũng là một tông
đồ của Chúa.
Từ những ghi nhận đơn sơ
này, vai trò của Ðức Mẹ đã từ từ trở
nên quan trọng hơn. Mẹ đã thu nhập
và biến đổi những nữ thần ngoại giáo mạnh
mẽ nhất. Mẹ là Ðức Mẹ đã ban sự sống,
nhưng cũng là “Pietà” đã nhận sự chết. Một
khi thuyết khổ hạnh (asceticism) đã trở thành
‘đường nên thánh’ trong Kitô giáo, Ðức Mẹ đã
trở nên “trọn đời đồng trinh”,
gương mẫu của đức thanh sạch và sự
tự từ bỏ. Năm 431, ở Công Ðồng Ê-phê-sô (Ephesus) Ðức
Mẹ đã được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa
(Theotokos). Từ đó, các nhà thần học
đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm những ý
nghĩa mầu nhiệm về Ðức Mẹ trong Kinh Thánh.
Thời Trung cổ, sự ảnh
hưởng của Ðức Mẹ càng mạnh mẽ
hơn. Trong khi các nhà thần học
đang cố công diễn giải thứ tự và sự
bình đẳng trừu tượng của Thiên Chúa Ba Ngôi
thì vai trò của Ðức Mẹ đã ảnh hưởng sâu
rộng, đặc biệt trong giới người nghèo. Mẹ đã trở thành hình ảnh nhân lành của
Mẹ Thiên Chúa. Từ đó đã có niềm
tin rằng Ðức Mẹ nhân lành đã không vương mắc
tội tổ tông. Niềm tin đó đã trở thành
tín điều ở thế kỷ thứ 19, khi ÐGH Piô IX
đã công bố tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên tội, năm 1854. Ðã
có sự chống đối mạnh mẽ trong các hệ
phái Tin Lành. Cùng lúc, thuyết Thế Tục
(Secularism) cũng đã gây ảnh hưởng nhiều
hơn. Trước những nguy nan đó, giáo hội
Công Giáo Âu Châu đã chạy đến với Ðức Mẹ.
Ðối với con người kinh tế của Karl Marx,
siêu nhân của Nietzsche, và tà thần (Faust) của Goethe, giáo
hội đã trình bày một phản chứng mang nữ
tính: một người mẹ lo âu và phán quyết, đã cảnh
báo nhân loại về thảm họa chiến tranh nếu
nhân loại không ăn năn và cải đổi. Các cuộc “hiện ra” đã gia tăng, đặc
biệt với những trẻ con miền đồng quê
như ở Lourdes và Fatima. Hàng trăm dòng tu nam,
nữ đã được thành lập và tất cả
đã, bằng cách này hay cách khác, được dâng hiến
cho Ðức Mẹ Vô Nhiễm.
Khoảng giữa thế kỷ XX, những
đền thánh cho Ðức Mẹ “da đen” như ở
Guadalupe,
Mexico; Montserrat ở Spain; và Czestochowa ở
quê hương Ba Lan của ÐTC Gioan Phaolô II đã nói lên các
căn tính quốc gia và tôn giáo. Ðến khi tín điều Ðức
Mẹ Hồn Xác Lên Trời được công bố vào
Năm Thánh 1950 thì Ðức Mẹ đã trở thành cột sống
của nền văn hóa Công Giáo. Ở Công Ðồng
Vatican II trong thập niên 60’s, một công bố đặc
biệt về Ðức Mẹ đã được đề
nghị và những từ như Ðồng Cứu Chuộc, Ðấng
Trung Gian đã được nhắc tới. Nhưng đa số nghị phụ, đặc biệt
những vị nghiêng về Kinh Thánh, đã không đồng
ý, các ngài lo ngại những điều đó sẽ
đưa đến việc “tôn thờ” Ðức Maria
(Mariolatry).
Woodward và nhóm của ông viết
tiếp rằng cũng như trong qúa khứ, khuôn mặt của
Ðức Maria hiện tại là phản ảnh của thời
đại. Trong khi
thế giới tiến gần tới thiên kỷ mới, Ðức
Maria xuất hiện (hay được trình bày) như một
nhân vật tiên tri, tiên đoán về thế tận. Mỉa mai thay, những người Công Giáo lên tiếng
mạnh mẽ nhất về một tín điều mới
đã có những tư tưởng không khác gì những
người Tin Lành qúa khích (fundamentalists) đã giảng về
ngày tận thế. “Nếu chúng ta từ chối (tín
điều về Ðức Mẹ), tôi nghĩ rằng thử
thách, bắt đạo, và thảm họa sẽ theo sau.” Nữ tu Angelica đã
nói như vậy trên chương trình truyền hình trực
tiếp “Mother Angelica Live” của bà. Bà tin rằng: “Nếu
ÐTC công bố tín điều này, thì thế giới sẽ
thoát khỏi đại họa và đem lại lòng
thương của Chúa nhiều hơn cho trái đất.”
Giáo hội Công Giáo từ hàng
thế kỷ đã từ chối những tiên đoán về
thế tận, đặc biệt là những tiên đoán
đến từ các mạc khải tư, nhưng thỉnh
thoảng vẫn có những nguời làm công việc này. Ông bà Ted và Maureen Flynn, được coi như
những “chuyên viên” về các sự hiện ra, đã góp nhặt
tất cả những thông điệp của Ðức Mẹ
(được giáo hội công nhận cũng như không
được công nhận) từ cả một thế kỷ
nay để tạo thành một khung cảnh thiên kỷ. Họ
tiên đoán về những cảnh báo siêu nhiên, phép lạ vĩ đại nhất thế giới, theo
sau là ba ngày tối tăm mà họ gọi là “cuộc sửa
phạt vĩ đại” (the great chastisement).
Những người chống lại việc
xin công bố tín điều mới về Ðức Mẹ
như nhà Thánh Mẫu học Pháp, René Laurentin, đã cho việc
thỉnh nguyện trên là phi Kinh Thánh và là một điều
sỉ nhục (affront) cho cái chết cứu rỗi đặc
biệt của Chúa Kitô. Ðiều này đã khiến
nhóm của Woodward đi đến kết luận rằng
hiện đang có sự tranh chấp lớn trong giáo hội
để được lòng ÐTC. Nhưng
ÐTC có sự khôn ngoan riêng của ngài. Dù sao, nhóm thỉnh
nguyện vẫn còn là thiểu số, bốn triệu
người trên tổng số một tỷ - một ngàn
triệu - giáo dân (theo thống kê lúc
đó, 1997) chưa hẳn đã là con số lớn. Ngoài ra, còn khoảng 2,700 ÐGM và ít nhất 90 ÐHY
đã chưa lên tiếng về việc này.
Kể từ khi giáo hội công bố về
quyền bất khả ngộ của ÐGH năm 1874, chỉ
một lần duy nhất quyền này đã được
xử dụng để công bố tín điều Ðức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời, do ÐGH Piô XII vào dịp Năm Thánh 1950.
Năm 2000 đã là Ðại Năm Thánh (Jubilee: Ðại Năm
Thánh được cử hành cứ mỗi 100 năm; và
Năm Thánh – Holy Year – cho mỗi 25 năm) thời điểm
thuận tiện nhất cho việc công bố tín điều
mới. Nhưng ÐTC Gioan Phaolô II có lần
đã công nhận rằng quyền bất khả ngộ của
giáo hoàng đã là một trở ngại lớn cho việc
hòa đồng giữa các giáo hội Kitô. Mặt khác,
ngài cũng nhìn thấy thế giới đã sa vào một nền
“văn hóa của sự chết” rất đúng lúc để
trình bày quan niệm về Ðức Nữ Trinh thiên kỷ
(Millennial Madonna). Một cách chắc chắn, ÐHY O’Connor của
New York đã viết rằng ÐTC sẽ tìm ra ngôn ngữ cho
tín điều mới về Ðức Mẹ mà không làm cho các
anh em Tin Lành phiền lòng. Nhưng có vị khác, như LM John
Roten chủ tịch Viện Nghiên Cứu Thánh Mẫu Học
ở đại học Dayton, đồng thời cũng
là một trong 23 vị đã đề nghị ÐTC không nên
công bố tín điều này, đã nói rằng: “Tại sao
phải làm phí phạm quyền bất khả ngộ cho
điều không lấy gì làm quan trọng?” Và
vị LM này “đề nghị” ÐTC chỉ lập một
ngày lễ mới, hay tạo một tước vị mới
cho Ðức Mẹ thay vì “đi đến chỗ thái qúa và
công bố một tín điều.”
Nhóm Woodward kết luận rằng “Nếu Hồn
Xác Lên Trời đã là một tín điều, Ðức Maria
đã có những gì mà các Kitô hữu chỉ hi vọng
được hưởng, như sự tái hợp với
Con của Mẹ (Chúa Kitô) trong vinh quang của Ðức Chúa
Cha bởi năng quyền của Ðức Chúa Thánh Thần.
Còn gì hơn nữa cho bất cứ bà mẹ nào?”
THÁI ÐỘ CỦA CHÚNG TA
Bài viết trên, được đăng
trên tờ báo “đời” như tuần san Newsweek, đã được
coi là tương đối khách quan vì nó đã không viết
một chiều, hay công kích giáo hội Công Giáo cách cực
đoan như nhiều tờ báo khác. Hiển nhiên những
người viết này đã có, hay được cố vấn
bởi những người có kiến thức thần học,
nhưng chắc chắn vẫn còn những thiếu sót hay
lệch lạc, do sự vô tình hoặc cố ý, tùy theo mục
đích riêng của nhóm người viết, hay của tờ
báo. Người đọc cần nhận
chân ý nghĩa của từng phần trong bài báo này.
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|