HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ ĐỨC MẸ
LÊN TRỜI (15/08)
Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab; 1 Cr
15,20-26; Lc 1,39-56
MA-RI-A DIỄM PHÚC HƠN MỌI
NGƯỜI NỮ
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39)
Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội
vã, đến miền núi, vào một thành
thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông
Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41)
Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a
chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên,
và bà được tràn đầy
Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và
nói rằng: “Em được chúc phúc
hơn mọi người phụ nữ, và
người con em đang cưu mang cũng
được chúc phúc. (43) Bởi đâu
tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến
với tôi thế này ? (44) Vì này
đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào,
thì đứa con trong bụng đã nhảy lên
vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì
đã tin rằng Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã
nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a
nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui
mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu
độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn
Người đoái thương nhìn
tới. Từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn
Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao
cả, danh Người thật chí thánh chí
tôn ! (50). Đời nọ tới
đời kia, Chúa hằng thương
xót những ai kính sợ Người.
(51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52)
Chúa hạ bệ những ai quyền
thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm
nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban
của đầy dư. Người giàu có,
lại đuổi về tay trắng. (54)
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của
Người, (55) như đã hứa cùng
cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại
lòng thương xót, dành cho tổ phụ
Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn
đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại
với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng,
rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba
phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a
vội vã lên đường thăm viếng
bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ
đều được chúc phúc vì đã
quảng đại đáp lời mời
cộng tác vào chương trình cứu
độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an
trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng
đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu
độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh
Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của
Đức Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên
đường vội vã: Chỉ một
thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin,
Đức Ma-ri-a đã vội vã lên
đường đến thăm bà chị họ
Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà
sứ thần đã cho biết bà mới có thai
được 6 tháng. Bà này đã
chịu tủi hổ trước mặt người
đời, vì bị son sẻ không con. +
Đến miền núi, vào một thành
thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà
Đức Ma-ri-a định tới là một
trong mười một địa hạt miền
Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó
là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số
về phía Tây. Con đừong từ
Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: +
bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi
bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ
giữa hai bà mẹ chính là cơ hội
để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi
Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong
bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả
bắt đầu sứ vụ ngôn sứ
bằng động tác nhảy mừng
trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn
mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít
xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao
Ước. Truyền thống coi sự kiện này là
dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được
khỏi tội tổ tông truyền. + Bà
được đầy ơn Chúa Thánh
Thần: Thánh Thần đã tác
động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô
em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến
viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: +
Em được chúc phúc hơn mọi
người phụ nữ và người
con em đang cưu mang cũng được chúc
phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm
phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong
lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên
Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi
được thân mẫu Chúa tôi đến
với tôi thế này ?: “Chúa tôi”
ở đây là danh xưng của Đấng
Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động
mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa
của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang
cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa”
được Tin Mừng Lu-ca sử dụng
đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi
vừa nghe tiếng em chào, thì đứa
con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét
chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa
cảm nghiệm. Đó cũng là lý do
khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a
đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em
thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a
đã tin vào những lời Chúa
phán với mình khi sứ thần truyền
tin sẽ được thực hiện, và
trở thành người tín hữu
đầu tiên của thời Tân Ước.
Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà
vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã
bị câm cho đến khi các điều sứ
thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +“Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe
bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a
đã quy hướng lời ca khen đó
về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên
Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca
mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ
Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho
sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền
Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li,
để thánh hiến dâng cho Đức Chúa
(x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều:
Một là người nghèo hèn bé
mọn được Chúa bênh vực (x. Xp
2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được
Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl
7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này
để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49)
và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã
đến thời điểm lời hứa
cứu độ của Đức Chúa được
thực hiện.
- C 51-55: + Chúa
giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa
dùng quyền năng để can thiệp và bênh
vực người hèn yếu (x. Tv
118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng
thương xót: Cựu Ước
thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại”
để diễn tả việc Người luôn trung
thành với lời hứa và thi hành những
lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1;
9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời
chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước
đó: “Người nhớ lại lời
xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: +
Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba
tháng: Ở lại để giúp đỡ bà
chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho
bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh
con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ
đúng mức mà thôi. + rồi trở về
nhà: Một tuần sau ngày bà
Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được
đặt tên và chịu phép Cắt Bì
để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì
Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là
thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức
Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà
chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền thống Công Giáo
khẳng định Gio-an Tẩy Giả được
khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ? 3)
Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã
gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì
? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm
phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà ? 5) Bài kinh
“Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế
nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì
? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu
và để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét
được tràn đầy Thánh Thần
đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em
được chúc phúc hơn mọi
người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật
có phúc, vì đã tin rằng Chúa
sẽ thực hiện những gì
Người đã nói với em” (45).
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO
ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ
VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC:
Hòm bia hay Khám Giao Ước là một
chiếc thùng được làm bằng
gỗ keo hình chữ nhật, dài một
thước hai, rộng bảy tấc rưỡi
và cao bảy tấc rưỡi.
Được dát bằng vàng ròng
cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa
đựng hai tấm bia ghi Mười điều
răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân
It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh
20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách
Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm
Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái
nắp đậy được gọi là
Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp
có hai bức tượng thần hộ giá
(Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt
đối diện nhau và cùng cúi mặt
xuống nắp. Hai tượng này có
cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh
25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà
Đức Chúa hiện ra nói chuyện
với dân Người và đáp lại
lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc
hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao
Ước luôn được khiêng đi
trước dẫn đường cho dân
Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm
Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về
Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở
thành trung tâm của Vương quốc cả về
chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã
đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi
Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây
dựng xong. Đối với nhà vua cũng
như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý
nghĩa lãnh đạo và che chở,
đồng thời cũng là lời khuyến
cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa
đang ngự giữa dân Người. Sau khi
đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền
thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công
Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao
Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa
của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển
sang Đền Thờ thứ hai và thành
thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa
và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A,
HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân
Ước, Đức Ma-ri-a được công
nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống
như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi
Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa
đã được tỏ hiện, đúng
như sứ thần đã nói với
Người: “Thánh Thần sẽ ngự
xuống trên Bà và quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao
phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột
lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en
để bang trợ, phù giúp dân
vượt qua biển Đỏ về miền
Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố
Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của
Người, Thánh Thần đã tác
động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai
mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời
Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy,
trở thành người có xác có
hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ
không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi
Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức
Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia
của Giao Ước Mới, nơi mà
“Lời Thiên Chúa đã trở nên
người phàm và cư ngụ giữa
chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su
trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).
Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang
Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng
được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) MẸ LUÔN CỨU GIÚP NHỮNG AI TIN
CẬY KÊU CẦU:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas
Hyde) vốn là một người vô tín và
thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ
bút một tờ báo lớn ở
nước Anh. Với tư cách là
chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội
để viết những bài phê bình chống
đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ
lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên
cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí
ông lại càng thêm tin tưởng vào các
chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa
quyết định dứt khóat tin theo đạo
ngay.
Một hôm, trên đường
từ nhà đến tòa soạn ở trung
tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến
trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm
biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên
đường, ông liền thử vào bên trong
nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng
ghế ở cuối nhà thờ và rồi
thắc mắc tại sao mình lại có
mặt ở đây? Bấy giờ ông
thấy một cô gái bước vào nhà
thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta
đi thẳng đến trước tòa
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên
trái cung thánh nhà thờ và quỳ
dưới hình Đức Mẹ một
hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy
đi xuống cuối và ra khỏi nhà
thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận
thấy nét mặt của cô ta đã bình
thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não
như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt
quyết định thử làm theo cô gái
là cũng đến quỳ trước ảnh
Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn
“tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết
người ta đã cầu nguyện với
Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng
tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra
một điều gì đó thích hợp.
Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi
lại thấy lời đó có vẻ kỳ
cục làm sao ! Nhưng điều này không quan
trọng gì. Tôi biết rõ là sự
tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã
đạt tới đích… Lúc ra khỏi
nhà thờ, tôi cố gắng hồi
tưởng lại những gì tôi nói
và hầu như tôi bật cười khi
nhớ lại những lời ấy. Chúng
giống hệt những lời ngân lên trong một
điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt
đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời
chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp.
3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ
ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay
Thánh Truyền là ký ức tông truyền,
Giáo Hội còn dựa trên một số
đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên
kết rất mật thiết với Con Mình
và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con,
để xác tín đặc ân Hồn Xác
Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống
người nữ sẽ đánh vào
đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách
hiểu: Một là “Sự chiến thắng
của dòng giống người đàn bà
trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng
Do Thái). Hai là “Người đàn bà
sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng
La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ
Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma
quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người
đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản
văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp),
được hiểu là Đức Giê-su, Đấng
sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng
đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa
ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc
và luôn có Chúa tức là hoàn toàn
trong sạch thánh thiện, nên Người không
phải chết như loài người chúng ta.
“Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và
đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a
được chọn làm Mẹ Đấng Thiên
Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị
Ít-ra-en và triều đại của
Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a
là E-và Mới: Đã cộng tác
với Đức Giê-su là A-Đam mới,
để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ
đã tích cực cộng tác với
Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25),
thì cũng được dự phần vào
sự phục sinh vinh quang với Người.
4) TỪ TÍN
ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN MẸ HỒN XÁC
LÊN TRỜI:
+ Từ thuở
ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi
đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Từ những đoạn Thánh Kinh Tân
Ước, đến các giáo phụ, rồi
Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên
bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”.
Đã có những lễ nói đến
lúc chấm dứt cuộc đời của
Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An
Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển
Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời
(Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng
Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ
Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã
được long trọng cử hành
đó đây trong Giáo Hội Đông Phương.
Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô
năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ
7, lễ này mới được du nhập
vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau
nhiều thư thỉnh nguyện của các giám
mục, các dòng tu, các nhà thần học
được gửi đến Đức
Giáo Hoàng để xin Ngài định tín
về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều
nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh
Cha quyết định điều đó, vì theo
các ngài thì việc Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật
thiết với đức đồng trinh và
chức vụ làm mẹ Đấng Cứu
Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ
đã được cứu chuộc hoàn
toàn, nên cũng phải được tôn vinh
toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng
ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi
sự đều sinh ích cho những ai yêu
mến người, tức là cho những
ai Người đã biết từ
trước, thì Người đã tiền
định cho họ nên đồng hình đồng
dạng với Con của Người, để
Con của Người làm trưởng
tử giữa một đàn em đông
đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh
nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12
đã gửi đến mỗi giám mục
một lá thư và yêu cầu trả lời như
sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo
dân trong giáo phận của Đức cha, có
xác tín và có muốn công bố việc
Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như
một tín điều hay không ?” Hầu hết
các thư trả lời đều
đồng ý và thỉnh nguyện như vậy.
Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12
đã long trọng tuyên bố tín điều
Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn
thể Giáo Hội tin kính và mừng chung
vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức
Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên
Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ
đời đời và do cùng một
quyết định tiền định, đã
được kết hợp với
Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm,
vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn
sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng
đại với Đấng Cứu Thế,
Đấng đã chiến thắng hoàn
toàn sự tội và các hiệu quả
của nó, thì cuối cùng để kết
thúc mọi đặc ân ngài đã
được, Đức Trinh Nữ cũng
đã gìn giữ khỏi bị hư nát
ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau
khi chiến thắng sự chết, ngài
cũng được tôn vinh trên trời cả hồn
lẫn xác, nơi Ngài được sáng
láng làm Nữ Vương ngự bên
hữu Con mình là Vua bất tử của
mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ
ĐỨC GIÊ-SU:
Là Mẹ đã thụ thai
và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca
thuật lại việc Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển
chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế
nhờ có Chúa ở cùng, và luôn
kết hiệp mật thiết với
Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a
đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo
toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh
Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se
từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem,
miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông
thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít.
Ông lên đó khai tên cùng với người
đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a,
lúc ấy đang có thai. Khi hai người
đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã
tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh
con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi
đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông
bà không tìm được chỗ trong nhà
trọ” (Lc 2,4-7).
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ
HỘI THÁNH:
+ Tin Mừng Gio-an viết:
“Đứng gần thập giá Đức Giê-su
có Mẹ Người, chị của Mẹ
Người là bà Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a
Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ
mình thương mến đứng bên,
Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng:
“Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi
Người nói với môn đệ: “Đây
là mẹ của anh”. Kể từ giờ
đó, người môn đệ rước bà
về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên
Chúa đặt Người làm Đầu
toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh
là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên
mãn của Người, Đấng làm cho
tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23);
“Người cũng là đầu của thân
thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh”
(Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ
của Đức Giê-su là Đầu, thì
cũng là Mẹ của thân thể Đức
Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi
tín hữu chúng ta.
+ Người nêu gương khiêm
nhường cho các tín hữu qua việc
luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu
ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36).
Người cũng nêu gương bác ái khi chủ
động thăm viếng bà chị họ
Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ
đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an
“nhảy mừng’ vì được khỏi
tội tổ tông truyền. Sau đó Người
còn ở lại 3 tháng để phục
vụ, giúp đỡ việc nhà cho bà
Ê-li-sa-bét trong ba tháng trước ngày bà sinh con, rồi trở
về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng
quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc
cưới bị thiếu rượu tại thành
Ca-na khi cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với
Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi này.
Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su
đã làm dấu lạ đầu tiên là biến
nước lã trở thành rượu
ngon để giúp họ (x. Ga 2,1-11).
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ ĐẤNG ĐẦY
ƠN PHÚC:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và
được Chúa luôn ở cùng như
lời chào của sứ thần truyền tin
(x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ
trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì
đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng
Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có
phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã
nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì
được làm Mẹ Đức Giê-su.
Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức
Maria chứa đựng chính Ngôi Lời
Thiên Chúa làm người, để ở
cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có
phúc vì đã trở thành môn đệ
Đức Giê-su như Đức Giê-su đã
đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi
người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng
Người: “Đúng hơn phải nói
rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân
giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do
đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã
gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên
khởi và tuyệt hảo nhất của
Đức Ki-tô”.
4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC
RƯỚC VỀ TRỜI ĐỂ CHUYỂN CẦU
CHO CHÚNG TA:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố
tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời” dạy chúng ta phải ý thức
về thiên đàng đời sau. Chúng ta
chỉ được lên trời nếu ngay
từ đời này đã
sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con
đường đau khổ thập giá của
Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời,
nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta
là con cái Người. Ta hãy xin ơn
được chết lành trong tay Đức
Mẹ và sau này được hưởng
hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su
nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta
cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu
nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội
Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy
gắn bó với Mẹ và nhờ
Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành
hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho
đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa
(x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy,
Mến với Chúa noi gương Đức
Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm
hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa
muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy
đến cho ta với lòng cậy trông phó
thác.
4. THẢO LUẬN: 1) Việc về
trời của Đức Mẹ (Lễ Mông
Triệu) giống và khác với việc lên
trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao
? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải
làm gì để sau này cũng
được Chúa ban thưởng hạnh
phúc lên trời với Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA BA NGÔI
CỰC THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì
Chúa đã thực hiện việc lớn
lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là
người con thân yêu và là nữ tỳ
hèn mọn của Chúa. Chúa đã
thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình
là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức
trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương
chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết
đặt trọn niềm tin vào lời
Chúa phán sẽ được thực
hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để
trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết
lắng nghe và thực thi Lời Chúa;
Nhờ thông phần với nỗi đau khổ
của Chúa Giê-su trên đường thánh
giá... mà Mẹ Ma-ri-a đã được
Chúa ban thưởng bội hậu lên trời
cả hồn lẫn xác.
2) LẠY ĐỨC
MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy
nhớ xưa nay chưa từng nghe có
người nào chạy đến cùng
Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp,
mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng
nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội
thánh hoàn cầu, chúng con long trọng
mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin
cho chúng con biết chạy đến với
Mẹ trong cơn gian nan thử thách : khi bị
thất bại trong việc làm ăn, những khi không
biết phải làm gì để vượt qua
khó khăn… Trong những giờ phút đau
thương ấy, xin cho chúng con biết chạy
đến nép mình dưới tà áo
Mẹ, để được Mẹ che chở
ủi an, để được Mẹ cầu
bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn
lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ
đừng để khi nào chúng con đi
vào con đường lầm lạc. Xin dạy
chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con
yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại
tiệc cưới Ca-na : « Người bảo
gì, các anh cứ việc làm theo » (Ga 2,5).
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM
|