“Lấy gì mà
đổi được linh hồn mình”
Tại Palestine người ta
thường đem đến những vấn đề
tranh cãi đến xin các rabbi phân xử. Đối với nhân vật trong
đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có
thế giá có thể giải quyết vấn đề cho
ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự
vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm
quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ
dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin
giải quyết những vấn đề vật
chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không
phải không nhạy cảm về những bất công có
thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không
muốn can thiệp vào những việc không liên hệ
trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi.
Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ
chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không
muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân
sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà
cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm
người xử kiện hay người chia gia tài cho các
anh?”
Có
thể câu trả lời này chứa đựng một
thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo
chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ
của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt
của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của
Giáo Hội không phải là để quyết định
những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội óc những cống hiến và
ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các
vấn đề luân lý và quyết định về
sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân
sinh.
Chúa
Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn
sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng
người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự
để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp
đỡ là do lòng tham lam thúc đẩy. Nhân cơ hội
này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa
phải có thái độ nào đối với vấn
đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu
chuyện. Câu chuyện về lão phú hộ ngu
dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên
nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ
mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là
điều khờ dại.
Có hai
điều đáng chú ý về người giàu này:
- Ông
ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn
nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu
của mình, kho lẫm của mình.” Đó là những chữ
rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ
lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi
tiếng về người ích kỷ như sau: “Có quá
nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắng!” Khi người này đã có của cải dư
dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia
sẻ. Tất cả thái độ
của ông đi ngược lại hẳn với tinh
thần Kitô giáo. Thay vì từ chối
mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay
vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố
sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt
của cải. Luật sống của
John Wesley Oxford ông có số lương là ba mươi
bảng Anh một năm. Ông tiêu hai
mươi tám đồng và cho đi hai đồng.
Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi
chín mươi, rồi một trăm hai mươi
đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi
tám đồng, còn bao nhiêu thì cho đi. Khi viên kế toán
trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông
gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả
lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân Đôn và hai cái
tại Bristol, đó là tất cả đồ bằng
bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào
nữa trong lúc biết bao nhiêu người chung quanh tôi không
có bánh ăn.” Châm ngôn La-mã có câu: “Tiền bạc khác nào
nước biển, ai càng uống thì càng khát thêm.” Bao lâu
người ta có thái độ giống như người
giàu ngu dại thì người ta cứ
ước ao được giàu thêm mãi – và đó là thái
độ ngược với tinh thần Kitô giáo.
- Ông ta
không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình
của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc
sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta.
Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng
thanh niên ham số và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói:
-
“Tôi sẽ học buôn bán.
” Ông lão hỏi:
-
Rồi sao nữa?
-
Rồi sao nữa?”
-
“Tôi sẽ mở hiệu buôn.”
-
Rồi sao nữa?
-
“Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp
lớn!”
-
“Rồi sao nữa?
-
Tôi sẽ trở về già, hưu
hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!”
Rồi sao nữa?
-
Ờ có lẽ một ngày kia
tôi sẽ chết.
-
Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau này cũng
như một lưỡi dao. Người nào không hề
nghĩ rằng có một thế giới bên kia
thì người đó sẽ có ngày phải gặp một
bất ngờ và cũng khủng khiếp.
Khi
giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô
đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải
chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này
tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không
phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một
phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn
sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục
vọng cai trị.”
Ngu
dại của người giàu này là coi tiền có của
như là mục đích duy nhất của đời
sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng
của con người. Có được các cần
thiết để sống và phát triển là chân chính,
nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý
tưởng sẽ đưa đến phá huỷ con người
và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng
như đối với một cá nhân, có thêm nhiều
của cải hơn không phải là mục đích tối
hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều có
hai mặt: nó cần thiết để con người
được nên người hơn, nhưng đồng
thời nó cũng giam hãm con người một khi nó
trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn
thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng
người trở nên chai đá và tinh thần khép kín
lại, con người không còn đến với nhau vì tình
nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc dễ làm cho con người
chống đối nhau và chia rẽ nhau.Vì thế nếu
chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những
sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con
người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm
sinh cảu con người. Đối với một
quốc gia cũng như đối với một con
người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu
nhất của tình trạng luân lý thấp kém.” (Đức
Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện
ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại
đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ
đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một
suối kỳ lạ. Ông uống nước
và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ
mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có
vị ngon lạ thường. Ông tự
nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước
thường, nó phải xuất phát từ một kỳ
diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn
xem sao.” Ông đi mãi cho tới cổng
thiên đàng. Cổng khoá, ông gõ cổng xin vào, nhưng
bên trong chỉ có một tiếng đáp lại:
“Ngươi không được vào đây, vì cổng này
thuộc về Chúa.” Vị đại tướng trả
lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trái đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở
cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ
chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết
những người đã chiến thắng dục
vọng thấp hèn của mình, chỉ những người
công chính ngay thẳng, mới được vào thiên
đàng. A-lịch-sơn giận dữ như
điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi
hết đến người giữ cổng thiên đình.
Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô
hiệu, bàn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và
được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra
cũng cho ta vật gì đem về để chứng
tỏ với người thế gian rằng ta đã
được đến nơi chưa từng có ai
đến. Người gác cổng đáp: “Đây,
hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi
điều ngươi xin, cầm về tìm hiểu ý
nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài
học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi.
A-lịch-sơn vồn vã đưa tay
nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân
mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là
một mảnh sọ người. Giận dữ, ông
quẳng mảnh xương xuống đất, la to:
Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta
lặn lội vất vả chỉ xứng như thế
này sao? Nhưng trong đoàn tuỳ tùng có một
người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin
chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất
lạ kỳ đáng đức vua để ý. Hãy cân nó
với vàng bạc báu vật của đức vua, thử
xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân
tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia
chất vàng bạc, bảo ngọc… lạ thay, xương
vẫn nặng hơn. Người ta chất thêm vàng,
bạc, bửu thạch nữa… Xương
vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh
xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc:
“Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiêu
vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ
này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một
mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên,
bên kim khí nặng hạ xuống.
A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn
nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là
lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé,
nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cải trần gian không làm
cho nó thoả sự ham muốn của nó. Nhưng khi
nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả,
thì sự ham hố trần thế của nó mới
hết.
Chúa
Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà
thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh
hồn mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả
Thánh Vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải,
lại vênh vang bởi lắm bạc tiền, nhưng nào có
ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục
hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy
nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời
đời…” (49,7-9). Vậy chúng ta hãy
sống khôn ngoan theo lời khuyên của Thánh Gioan: “Anh em
đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế
gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có
lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như
dục vọng của tính xác thịt, dục vọng
của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất
cả những cái đó không xuất phát từ Chúa Cha,
nhưng xuất phát từ thế gian; mà thế gian đang
đi qua cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn
tại mãi mãi.” (1Ga 2, 15-17).
|