Người Samaritanô
nhân hậu
(Trích dẫn
từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một đạo sĩ Ấn giáo
nọ hỏi các đệ tử của ông như sau
-
“Làm thế nào để biết
được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?”
Sau vài phút suy nghĩ, một đệ
tử giơ tay xin trả lời:
-
“Tôi biết được khi nào là
đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta trông
thấy một con thú từ xa mà ta phân biệt
được nó là con bò hay là con ngựa”,
Câu trả lời đã không làm cho nhà
đạo sĩ ưng ý chút nào… một đệ
tử khác lên tiếng:
-
“Ta biết được khi nào là
đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta thấy
một cây lớn từ đàng xa mà ta phân biệt
được đó là cây xoài hay cây mít”,
Vị đạo sĩ lắc
đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao
nhao muốn biết giải đáp, ông mới ôn tồn nói
như sau:
-
“Khi ta nhìn vào gương mặt bất
cứ người nào mà nhận ra người đó là
người anh em của ta thì đó là lúc đêm tàn và ngày
mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt
được như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có
bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì
thay đổi”.
Thưa
anh chị em,
Nhân loại đã chìm ngập trong
đêm tối của tội lỗi, đêm tối của
trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn
nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xoá tan ĐÊM tối và khai mở NGÀY mới,
trong đó người nhận ra người là anh em,
người trở về với Thiên Chúa.
Như
nhà đạo sĩ đã giải đáp: “khi ta nhìn vào
gương mặt của bất cứ người nào mà
nhận ra người anh em của ta trong người
đó, là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu”. Nhận ra người anh em nơi một
người nào, đó chính là nhìn thấy hình
ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người
cũng như phẩm giá vô cùng cao quý của người
đó. Nhận ra người anh em
nơi một người nào, đó là nhìn thấy niềm
vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả
lỗi lầm của người đó như của chính
mình.
Nhận
ra người anh em nơi một người nào, đó là
sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi
người đó xúc phạm đến ta và không muốn
nhìn mặt ta. Nhận ra người anh em
nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là không
thất vọng về khả năng hướng thiện
của người đó. Nhận ra người anh
em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là
muốn nói với người đó rằng, cách nầy
hay cách khác, ta cần người đó để
được sống xứng đáng với ơn
gọi làm người hơn.
Trái lại, nếu ta không nhận ra
người khác là người anh em của mình thì mình
vẫn ở trong bóng tối đêm đen. Chỉ khi nhận ra được
người khác là người anh em của mình, thì mình
mới bước vào ánh sáng ban ngày. Người
khác đó là bất cứ ai, không phân biệt màu da,
chủng tộc, ngôn ngữ, ý thức hệ. Tất cả mọi người là anh em của
tôi.
Thế
nhưng, thưa anh chị em, trong Tin Mừng hôm nay, một
luật sĩ đã hỏi Chúa: “Ai là anh em tôi?”.
Để trả lời, Chúa Giêsu đã
kể cây chuyện người Samari nhân hậu.
Người Samari nầy đã nhận ra nạn nhân
đang năm lây lất bên đường là người
anh em gần gũi của mình, đang khi thầy Tư
tế và thầy Lêvi lại không nhận ra nạn nhân
nằm bên vệ đường kia là
người anh em, mặc dầu nạn nhân ấy cũng
là người Do Thái đồng bào và
đồng đạo với mình. Nạn nhân
đã trở thành kẻ xa lạ, chỉ vì rơi vào hoàn
cảnh bất hạnh.
Câu chuyện muốn làm nổi bật
thái độ dễ thương của người Samari
nhân hậu. Chúng ta
thấy ông xuống ngựa và đến cúi xuống trên
con người đang quằn quại ở vệ
đường. Ông chẳng
để ý xem kẻ bất hạnh là ai? Là
người Do Thái hay Samari – hai dân nầy vẫn coi nhau
như thù địch- ông chỉ thấy đây là một
kẻ bất hạnh, một con người như mình,
nhưng lại không được như mình. Thế nên
ông đã săn sóc, băng bó vết thương và chở
đến quán trọ gần nhất
cấp cứu, rồi còn sẵn sàng trang trải mọi
phí tổn nữa.
Như
vậy, người Samari nhân hậu nầy đã trở
nên người anh em thân cận, gần gũi với
người bị nạn, mặc dù ông không cùng chủng
tộc và tôn giáo, hơn nữa ông còn bị coi như
kẻ thù của người Do Thái bị nạn nầy,
đang khi hai thầy Tư tế và Lêvi vừa là
người Do Thái vừa là bậc thầy dạy
đạo, tế lễ, lại coi kẻ đồng
đạo, đồng bào xa lạ. Chính
những hành động bác ái thương người
cụ thể như tế mới làm chứng ai thật là
người có đạo, ai thật là người, vì có
lòng nhân ái.
Anh
chị em thân mến,
Ngày
11 tháng 2 năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban
hành một Tông thư mang tựa đề: “Salvifici doloris”
nói về “ý nghĩa đau khổ của người theo
Kitô giáo” để toàn thể Giáo Hội suy tư trong
Năm Thánh Cứu Độ 1984. Đức Giáo Hoàng đã
nhắc lại dụ ngôn “người Samari nhân hậu”,
không phải chỉ để gởi tới các bệnh
nhân, những người phải chịu đau khổ, mà
còn gởi tới mọi người. Bởi vì đau
khổ vẫn ở ngay bên đường đi của
chúng ta, đến nỗi con người rất dễ
bị cám dỗ ‘bỏ đi qua”một cách dửng
dưng. Sự dửng dưng nầy là một nét
đặc trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn “Người
Samari nhân hậu” đã trở nên yếu tố thiết
yếu của nền văn hoá đạo
đức cũng như nền văn minh phổ quát
của nhân loại. Nhưng “khi
đến với đau khổ của người khác,
không một tổ chức nào, tự nó, có thể thay thế
người”. Và vào ngày phán xét, Chúa sẽ nói với
mỗi người chúng ta rằng: “Ta bảo thật các
ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta
đâu, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Tông thư SD. Số 28-30).
Chúa
Giêsu đã bảo luật sĩ: “Cả ông nữa, hãy
đi và làm như vậy”. Hôm nay, chính với chúng ta, Chúa
Giêsu ban huấn lệnh cấp bách
nầy: “Hãy đi và làm y như vậy”. Chúng
ta hãy đi và làm như người Samari đã làm.
Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm
vụ của người Samari nhân hậu bên cạnh
tất cả những ai chúng ta gặp và chân tình giúp
đỡ, băng bó các vết thương của họ,
nhưng vết thương, nghèo đói, đau yếu, bệnh
tật, cô đơn, chết chóc… Đừng ngồi
đặt vấn đề: “Ai là anh em tôi?”,
nhưng hãy đi và tỏ ra “mình là anh em của mọi
người”. Đừng dừng lại tìm
xem người đó là ai, có đạo hay không có
đạo. Nhưng hãy đi và làm như người
Samari kia, nhìn thấy vết thương
thì băng bó, nhìn thấy người đau khổ thì
cứu giúp. Phải vượt qua quan
niệm hẹp hòi của người Do Thái, để
đi đến tình huynh đệ phổ quát, đại
đồng.
Yêu mến Chúa trong nhà thờ, không
đủ, nếu không yêu mến Chúa trên đường
đi và trong người anh em đồng bào, đồng
loại. Chúng
ta phải sống đạo chứ không
phải chỉ biết luật day mến Chúa yêu
người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ
đã nói: “Anh em đừng yêu thương nơi
đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu
thương thực sự bằng việc làm”. Ngài còn nói:
“Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình,
thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em
mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở
trong bóng tối đã làm cho người ấy ra mù quáng”
(1Ga 2,9-11).
Hãy nhận ra khuôn mặt của tất
cả mọi người là người anh em. Chỉ khi đó chúng ta mới ra
khỏi bóng tối đang bao trùm chúng ta và được
tràn ngập ánh sáng vinh quang của Chúa.
|