Ai là
người thân cận của tôi? - Lm Vũ Phan Long
Trong
lãnh vực yêu thương người thân cận,
người ta không được nghĩ từ bản
thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu
thực tế của bất cứ người nào ta
gặp trên đường ta đi.
1. NGỮ CẢNH
Đức
Giêsu vừa mới đặt đối lập các môn
đệ như là “những người bé mọn” với
“các bậc khôn ngoan thông thái” (10,21);
Người tuyên bố rằng các môn đệ có phúc vì
được thấy được nghe nhiều
điều mà các ngôn sứ và vua chúa không được
(10,23-24). Nay tác giả Lc tiếp tục phần
tường thuật hành trình lên Giêrusalem bằng cách
giới thiệu một trong các vị thông thái để
ông này hỏi Đức Giêsu và trắc nghiệm giáo
huấn của Người (10,25-28). Mối phúc được công bố trên các môn
đệ nay được nối tiếp bằng
một đoạn văn mang tính khuyến thiện nói
về sự sống đời đời và tình yêu
đối với Thiên Chúa và người thân cận.
Sau đó, do vị thông luật còn cật vấn,
Đức Giêsu đã kể Dụ ngôn người Samari
nhân hậu (10,29-37) để minh hoạ
đòi hỏi của tình yêu.
2. BỐ CỤC
Bản
văn có thể chia thành hai phần chính:
Œ Điều kiện để
được sống đời đời (10,25-28):- Người thông luật đặt
câu hỏi (c. 25),
- Đức Giêsu
trả lời bằng câu hỏi (c.26),
- Người
thông luật trả lời bằng cách trích Kinh Thánh (c. 27),
- Đức Giêsu
xác nhận (c. 28);
Dụ ngôn người Samari nhân hậu
(10,29-37):
- Người
thông luật cật vấn (c. 29),
- Đức Giêsu
kể dụ ngôn để đưa tới câu hỏi (cc.
30-36),
- Người
thông luật trả lời (c. 37a),
-
Đức Giêsu xác nhận (c. 37b).
3. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Thử (25):
Động từ ekpeirazein, “test”, để diễn tả
một thái độ thù nghịch. Chính câu
hỏi về người thân cận mới là cái bẫy
giăng ra cho Đức Giêsu.
- Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi (27): Trước tiên, vị thông luật trích
Đnl 6,5 theo bản LXX. Đây
là phần mở đầu của kinh Shema, tức là
lời tuyên xưng đức tin mà người Do Thái
đọc mỗi ngày hai lần.
Các phương
diện của con người được nói
đến ở đây phải được hiểu theo
nghĩa Cựu Ước: kardia, “tim, lòng”, là những
phản ứng cảm xúc nhanh nhạy của con
người; psychê, “linh hồn”, là sinh lực và khả
năng nhận thức; ischys, “sức lực”, là chiều
hướng bản năng, và dianoia, “trí khôn”, là khả
năng trí tuệ và lên kế hoạch. Tổng
hợp lại, các phương diện này muốn diễn
tả toàn thể con người.
- yêu
mến người thân cận như chính mình (27): Câu
đáp thứ hai này trích Lv 19,18b (vẫn theo bản LXX),
nhưng nối với câu trước như một
đơn vị duy nhất. Không có chỗ nào
trong Cựu Ước liên kết hai điều này với
nhau cả. Chính Đức Giêsu đã xác
nhận cách làm này, và như thế Người đã
đơn giản hoá mà cũng là đào sâu
613 qui định của Lề Luật.
Trong
sách Lêvi, “người thân cận” ở thế song
đối với “những con cái của dân ngươi”,
nghĩa là người Ít-ra-en. Ở Lv 19,34, tình yêu có mở
rộng đến cả “ngoại kiều” (gêr) trong
xứ (x. Đnl 19,10), nhưng không mở ra với
những người khác, chẳng hạn các gôyým, “các dân
[ngoại]”.
- Cứ làm
như vậy là sẽ được sống (28): nghĩa
là được sống đời đời. Chỉ
người nào đưa điều răn yêu
thương ra thực hành thì mới đạt
được sự sống. Động từ zêsê (“anh
sẽ được sống”) rất có thể gợi
đến Lv 18,5 là câu có lời hứa ban sự sống
cho ai vâng phục các quy tắc và quyết định
của Đức Chúa. Như thế,
những lời Đức Giêsu nói đã thêm vào một
lời khuyên cho lệnh truyền của Lề Luật vì
lệnh truyền này vẫn còn có tính lý thuyết. Và đây chính là bài giáo lý tác giả Lc nhắm
gửi đến cho độc giả Kitô hữu.
- từ
Giêrusalem xuống Giêrikhô (30): Theo sử gia Gioxép (J.W. 4.8,3 §
474), còn đường này dài khoảng 150 stadia (khoảng
mười tám dặm, một dặm [stadion] dài khoảng
185m) đi qua vùng “sa mạc và lởm chởm đá”.
Giêrikhô, “thành phố chà là” (2 Sb 28,15),
nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một
tuyến đường giao thông quan trọng, là một
điểm chiến lược mà đế quốc Rôma
quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại
đây người ta dễ gặp các nhân viên của
đế quốc hoặc các sĩ quan, binh
lính Rôma. Thành này không phải là Giêrikhô thời Cựu
Ước (= Tell es-Sultan), mà là thành được Hêrôđê
Cả thiết lập khoảng một dặm rưỡi
về phía nam trên bờ tây của cánh đồng Giođan.
- một
thầy tư tế (31): Rất có thể thầy đã
xong thời gian phục dịch tại Đền Thờ
Giêrusalem, nay đang đi về nhà. Truyền
thống kinh sư sau này cho biết Giêrikhô là nơi có
một số tư tế cư ngụ.
- một
thầy Lêvi (32): Tên này lúc đầu chỉ
một thành viên của chi họ Lêvi, tức một con cháu
của người con thứ ba của Giacóp (St 29,34). Trong
Cựu Ước, danh hiệu “thầy Lêvi” thường
được dùng để gọi những người
không thuộc dòng dõi Aharon, nhưng được giao cho làm
những việc lặt vặt liên hệ đến
việc phụng tự và các nghi thức ở Đền
Thờ.
- người
Samari (33; x. 9,52): tức dân cư Samari. Samari là kinh đô
của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập
vào khoảng năm 870 tr CG. Sau này, tên gọi “người Samari” (hl. Samaritês) trở thành một tên gọi mang tính
chủng tộc và tôn giáo để chỉ những
người cư ngụ trong miền đất giữa
Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người
Samari và người Do Thái được giải thích khác
nhau tuỳ mỗi bên. Thường
người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có
việc đế quốc Átsua đưa người Do
Thái đi lưu đày sau khi chiếm được
đất nước năm 722 tr CG và đưa những
người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở
trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau
này những người ở lại quê nhà đả
phá những người Do Thái hồi hương khi
những người này xây lại thành và Đền
Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9).
Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp
nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã
xây một đền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào
thời Hy-lạp (đền này đã bị phá huỷ dưới thời Gioan Hiếccanô,
khoảng năm 128 tr CG).
- chạnh
lòng thương (33): Động từ splanchnizesthai có
nghĩa là “đau lòng, lòng quặn thắt”.
4. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
*
Điều kiện để được sống
đời đời (25-28)
Chuyện
xảy ra khi một vị thông luật hỏi Đức
Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia
nghiệp?”. Ông quan tâm
đến sự sống đời đời. Ông xác tín rằng ông phải làm điều gì
đó để có sự sống này, chứ sự sống
đời đời không từ trời rơi xuống.
Câu hỏi này đi xa hơn những mối
bận tâm và lợi lộc hằng ngày. Câu
hỏi này giả thiết là mọi sự không chấm
dứt với cái chết, nhưng có một sự sống
đời đời, không hề mai một, một sự
sống vượt thắng cái chết. Với
mối bận tâm có ý thức và với tinh thần trách
nhiệm, vị thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì
để cuộc sống bên kia cái chết không trở
thành cho tôi một hoàn cảnh bị phạt, nhưng là
một sự sống vĩnh cửu đầy niềm
vui?”.
Giống như Đức Giêsu, vị
thông luật cũng đi từ tiền giả
định là có một sự sống đời
đời. Ông hoàn toàn đồng ý là để đạt
được sự sống ấy, dứt khoát phải
yêu mến Thiên Chúa và người thân cận trong cuộc
sống hiện tại. Đức Giêsu
đã đánh giá là ông trả lời đúng và đề
nghị cứ làm như thế.
* Dụ
ngôn người Samari nhân hậu (29-37)
Cảm
thấy bị nhục vì phải tự tìm câu trả
lời, vị thông luật chuyển sang bình diện suy lý:
“Ai là người thân cận của tôi? Ai thuộc về
khối những người mà tôi phải yêu thương
như chính mình tôi?”. Dường
như ông xác tín rằng phải có những giới hạn
trong số những người mà ông phải yêu
thương. Đối với người Do Thái,
chỉ người đồng hương mới
được coi như là người thân cận, và
người ta mới phải yêu thương và giúp
đỡ. Vẫn tỏ ra mình làm chủ cuộc tranh
luận, Đức Giêsu coi câu hỏi của vị thông
luật là quan trọng, và vì nhắm phục vụ công
cuộc cứu độ các linh hồn, Người
trả lời bằng dụ ngôn “Người Samari nhân
hậu”.
Con
đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô
băng qua sa mạc. Cho đến
cuối thế kỷ XX, đây là một con
đường không an toàn, thường
xuyên bị các đám cướp tấn công. Một
người vô danh, không rõ địa vị, nòi giống,
quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay
bọn cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi
bị bỏ mặc bên vệ đường giở
sống giở chết: đây là một tình cảnh
hết sức quẫn bách. Nói rằng một con
người ở trong tình cảnh ấy cần
được giúp đỡ, và ai giúp đỡ
người ấy là thân cận của người
ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt
mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi
đã thấy con người nằm đó dở sống
dở chết, nhưng đã sang bên kia
đường mà tiếp tục bước đi. Sự
bận tâm đến sự an toàn và
sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm
đối với người bị nạn. Lối xử sự của người Samari khác
hẳn. Ông hành động cách
gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình
diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần
kíp của con người đang nằm trên
đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng
thương, ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi
tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì
ông có để cứu giúp người bị nạn
(dầu, rượu, con lừa, bạc).
Đức Giêsu đã cố tình chọn
một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người
lạc đạo ấy, không hề có
kiến thức của nhà luật học, cũng không có
phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại
tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức.
Ông đã thực hành hai điều răn lớn của
Cựu Ước về đức mến.
Do đó, chính ông mới đáng được gọi là
người Ít-ra-en chân chính.
Đức Giêsu cho thấy rằng trong
vấn đề yêu thương, không thể vạch ra
một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những tiêu chí, xác định
một con số giới hạn gồm những kẻ mà
ta phải yêu thương. Như trong
những trường hợp khác, Người thay
đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời.
Vị thông luật hỏi: “Ai là người thân cận
của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”. Đức Giêsu đảo ngược câu
hỏi: “Ai đã tỏ ra là [ai đã trở thành]
người thân cận với người đã bị
rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Người đã thay đổi
tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của
Đức Giêsu hoàn toàn trả lời cho câu hỏi
đầu tiên của vị thông luật: “Thưa Thầy,
tôi phải làm gì để được sự sống
đời đời làm gia nghiệp?” (c. 25).
] Kết
luận
Trong
lãnh vực yêu thương người thân cận,
người ta không được nghĩ từ bản
thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu
thực tế của bất cứ người nào ta
gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó,
đời sống ta mới trở thành con
đường đưa tới cuộc sống vĩnh
cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ
cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ
Đức Giêsu đã đưa được ông về
bình diện những thực tại sống động và
đặt ông trước một chọn lựa: “Ông hãy
đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).
5. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Có
một thái độ ngược lại với thái
độ của vị thông luật: “Tôi chẳng hề
quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự sống có
tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như
thế nào. Tôi đang có khá nhiều chuyện
bận bịu với cuộc sống hiện tại
rồi, nên không muốn nặng lòng với những mối
bận tâm về sự sống đời đời.
Đàng khác, người ta không biết
được gì chắc chắn. Tôi tìm
cách thoả mãn các nỗi niềm chờ mong
của tôi trong đời sống hiện tại, chứ
không quan tâm đến một sự sống đời
đời có thể có”. Một thái độ như
thế đã bị Đức Giêsu đánh giá là “ngu” (Lc 12,13-21). Người ta không
thể giải quyết một câu hỏi bằng cách
nhắm mắt lại và không muốn chấp nhận nó.
Người ta tránh trả lời một cách
có trách nhiệm câu hỏi về sự sống đời
đời, bằng cách nói rằng người ta không
muốn dính dáng gì đến nó. Ngược
lại đối với Đức Giêsu, sự sống
đời đời là một thực tại quyết
định. Bởi vì nếu không có sự sống
đời đời, nếu không có trách nhiệm
trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc
người ta xử sự thế nào trên con
đường đưa tới Giêrikhô cũng chẳng
quan trọng gì. Chẳng bao lâu người ta
sẽ quên đi mọi sự. Sẽ
chẳng có ai cật vấn tôi và tôi sẽ chẳng
phải trả lẽ với ai cả. Nhưng
trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa không phải là
chuyện xa lạ với thế giới; trách nhiệm này
đưa tới trung tâm của đời sống
hiện tại của chúng ta và qui định hình thức
của đời sống này. Nó qui
định điều gì là đúng và điều gì là sai
trên đường đưa tới Giêrikhô. Không có trách nhiệm này, chỉ còn một vấn
đề duy nhất là làm thế nào sống càng lâu càng
tốt và sống càng thoải mái càng tốt.
2. Ta
không thể nói: “Người thân cận của tôi có
thể còn là người bà con đời thứ ba;
người cư ngụ cùng đường phố
với tôi; người cùng làm việc trong một xí
nghiệp với tôi; người có thiện cảm với
tôi, v.v.”. Đức Giêsu
không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu
thương đối với người khác. Tôi
không được suy nghĩ khởi đi từ chính
bản thân: “Tôi còn buộc phải làm cho ai điều gì? Tôi [còn] phải giúp đỡ ai? Kể
từ điểm đó, chuyện ấy không còn dính dáng
đến tôi nữa?”. Không phải là
bậc họ hàng hoặc mối thiện cảm sẽ qui
định ai là người thân cận của tôi, nhưng
là tình trạng cần được giúp đỡ thực
sự trong đó người kia đang
lâm vào. Bất cứ ai xuất hiện trên
đường tôi đi, mà đang ở trong tình trạng
quẫn bách, đều là người thân cận mà tôi
phải yêu thương và giúp đỡ.
3.
Muốn thực sự giúp đỡ người lâm
nạn, người ta phải dấn thân vào trọn
vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì
giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo
trộn sự yên tĩnh cũng như chương trình, thậm
chí có thể kèm theo một nguy hiểm
cho mình nữa. Nhưng đấy chính là
thực sự yêu thương người thân cận,
một tình yêu đưa đến sự sống
đời đời. Như thế, phải luôn
mở mắt và có trái tim sẵn sàng
để nhận ra được rằng ai đang
thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi
phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay
trên đường đời, vẫn còn có vô số
“kẻ cướp”, nên sẽ còn vô số người
rơi vào tay “kẻ cướp”, nằm trên
đường ta đi, và chờ đợi ta trợ
giúp.
4. Câu
hỏi về sự sống đời đời
đưa thẳng vào cuộc sống mỗi ngày của
chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về lộ
trình chúng ta theo hằng ngày, sao cho lộ
trình này trở thành hành trình đưa chúng ta đến
sự sống đời đời. Muốn
thế, cần biết không vội vàng lo cho bản thân và
lo cho những dự phóng riêng tư, nhưng biết
dừng lại để mau mắn giúp đỡ những
ai ở bên vệ đường đang cần
được cứu giúp.
5.
Đức mến phải phát xuất từ lòng của
từng con người, phải thiết thực và hữu
hiệu. Người Samari đã dừng
lại, băng bó vết thương, thanh toán mọi chi
phí cho chủ quán. Ông không cần tìm hiểu xem đây
phải chăng là một người Do Thái, tức
một kẻ thù không đội trời chung.
Ông chỉ cần biết đây là một
người đáng thương cần được
cứu giúp, và ông đã cứu giúp.
|