Sai 72 môn đệ đi rao
giảng - McCarthy
Suy Niệm 1. Mùa gặt bội thu
Kitô giáo là một tôn giáo
thực hành. Catherine de Hueck Doherty là
một Kitô hữu nổi tiếng. Sinh ra trong một
gia đình quý tộc ở nước Nga, bà sống
phần lớn cuộc đời ở Mỹ. Bà nói: “Ngay
khi còn nhỏ tuổi, tôi biết rằng Tin Mừng là
để sống”.
Khi đã trưởng thành chị làm
công việc của một người bưng nước
trong một quán ba ở Manhattan. Trong
một dịp kia, chị thông báo cho
một nhóm lính Mỹ và những bạn gái của họ
(họ đều biết chị là người Công giáo)
đã đến giờ đóng cửa (4 giờ sáng) và
chị phải về.
“Chị đi đâu, Latie?” họ
hỏi.
“Hôm nay Chúa nhật, tôi đi dự Thánh
lễ”.
“Vâng, ra cô là người Công giáo?”.
“Vâng” chị đáp.
Họ không thể nào hiểu nổi
sự kiện chị là một người Công giáo hành
đạo mà lại làm việc ở một nơi như
thế. Tất cả bọn họ đi theo chị đến nhà thờ dự Thánh
lễ. Hai tuần sau, một cô gái trong nhóm trở lại.
Cô ấy nói: “Chị làm tôi suy nghĩ. Nếu chị có
thể sống một đời sống tốt lành khi
phải làm việc ở một nơi như thế này, vì
thế có lẽ tôi cũng có thể làm được”.
Một lần khác Catherine đi tàu
điện ngầm ở Montrial thì gặp một phụ
nữ già, cô độc nói với chị: “Chị có
muốn nói chuyện với tôi một lúc không?”. Họ làm hai chuyến đi từ
đầu này đến đầu kia
của tàu điện ngầm và nói chuyện hết
thời gian. Họ trở thành bạn tốt của nhau,
và thường viết thư cho nhau cho
đến lúc người phụ nữ ấy qua
đời.
Mùa gặt dĩ
nhiên là bội thu đối với
những người có con mắt nhìn nó và một tâm
hồn đáp lại. Mùa gặt ấy trong
các bệnh viện, gia đình, trường học, nhà tù,
công trường, vùng phụ cận. Mỗi
ngày là một ngày gặt hái.
Đức Kitô
sai các Tông đồ ra đi giúp Người thu
hoạch mùa màng. Chúng ta có khuynh hướng để
việc ấy cho những nhà chuyên môn: cho các linh mục,
nữ tu, các nhà truyền giáo. Những
người mà Đức Kitô sai đi không phải là
những nhà chuyên môn. Tuy vậy, họ
đã trở thành những công cụ của người.
Trao trách nhiệm cho một cá nhân và để
cho người ấy biết bạn tín nhiệm
người ấy là đem lại cho người ấy
một sự giúp đỡ mà ít có sự giúp đỡ nào
bằng.
Nhóm
bảy mươi hai bắt đầu là những môn
đệ của Người. Rồi Người hướng họ
đến mục tiêu bên trên họ với việc làm cho
họ thành những Tông đồ. Đó
là cách thức phải luôn luôn được thực
hiện. Chúa yêu cầu chúng ta chia sẽ
với những người khác điều mà chúng ta đã
nhận được từ Người. Có những điều vẫn còn chưa làm
được nếu chính chúng ta không làm. Chúng ta nâng cao chúng ta lên trong mức độ chúng
ta nâng cao người khác lên.
Làm
một Tông đồ có nghĩa là một người
được sai đi.
Để có thể làm được công
việc của Đức Giêsu. Chúng ta
không cần phải là một loại thiên tài hoặc siêu
nhân nào đó. Có sự khác nhau giữa
một Tông đồ và một thiên tài. Sự
khác nhau ấy ít liên quan đến tài năng và trí tuệ,
mà có liên quan đến mục đích và sự dấn thân.
Bởi
lẽ người ta được kêu gọi không có
nghĩa để được trở thành thông minh
hơn hoặc có nhiều tưởng tuợng hơn
trước đó. Không, người ta vẫn có quan hệ với
những ơn tự nhiên. Nhưng
giờ đây, họ có nhiều quyết tâm hơn,
nhiều sự dâng hiến hơn. Điều
ấy đã tạo ra sự khác nhau to lớn.
Suy Niệm 2. Làm chứng bằng
thương tích
Bốn mươi năm sau khi rời
bỏ trại giam Auschwitz, nhà văn Ý Primo Levi vẫn còn
mang hình xăm với con số của ông khi còn ở
đó. Khi người ta hỏi ông tại sao không xoá nó
đi, ông đáp: “Tại sao tôi phải làm thế? Không có nhiều người trong chúng ta
được đưa vào thế giới để làm
nhân chứng”.
Alexander Solzhenitsyn nói rằng ông vẫn
còn bốn mảnh vải dùng để vá mang con số mà
người ta phát cho ông khi còn trong nhà tù. Ông không phải là người duy nhất đem
chúng ra khỏi trại giam. Không xấu hổ về
những điều đó, ông nói: “Trong một số gia
đình, chúng được phô bày ra như những thành
tích”.
Thánh
Phaolô cũng không xấu hổ vì những dấu tích mà ông
mang trên mình ông vì Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, ông bình
thản lôi kéo sự chú ý về những dấu tích ấy
(Bài đọc 2). Ông nói với những tín hữu
Galat1: “Những dấu tích trên người tôi là những
dấu tích của Đức Kitô”. Bằng
từ “dấu tích”, ông không có ý nói đến những
dấu thành như Padre Pio và những người khác cho
rằng mình được in dấu thánh. Ông muốn
nói đến những dấu tích, vết thẹo mà
những gian lao, bệnh tật, sự
đánh đòn, ném đá còn để lại trên thân thể
của ông. Đó là những sự trả giá
cho việc ông phục vụ Đức Kitô.
Điều
thú vị hơn nữa là sự kiện Đức Giêsu
giữ lại dấu đinh và vết đòng đâm trên
thân thể Phục Sinh của Người. Người ta có thể hy vọng
Người làm mất hết mọi dấu tích để
chứng tỏ rằng mọi sự đã qua cả
rồi, đã ở sau lưng Người, và bởi vì
Người đã không muốn làm cho các Tông đồ khó
xử vì họ đã bỏ rơi Người hoặc
những người trực tiếp hay gián tiếp có trách
nhiệm gây ra các dấu tích ấy.
Nhưng
Đức Giêsu đã không tháo bỏ mọi thương
tích. Người
đã giữ chúng lại. Đối
với Người những vết tích ấy không làm cho
Người xấu hổ hoặc bối rối.
Chúng là những chứng cứ sống động của
tình yêu Người, là những dấu chỉ hữu hình và
hùng hồn một tình yêu chân thật phải trả giá
như thế nào. Chúng giống như
những huy hiệu danh dự, hoặc những huy
chương chỉ sự lỗi lạc mà khó khăn
lắm người ta mới dành được. Chúng vẫn là những thương tích nhưng
chất độc đã bị trừ khử, và vì thế
không còn làm tổn thương. Bởi vì
các thương tích của Đức Giêsu vẫn còn
thấy rõ trên thân thể Phục Sinh của Người,
chúng đã trở thành suối nguồn hy vọng cho
tất cả chúng ta, đặc biệt cho những
người đã chịu đau khổ và vẫn đang
còn đau khổ.
Rất
nhiều lần chúng ta muốn che giấu những
thương tích của chúng ta. Chúng ta muốn giấu kín những
tổn thương của quá khứ. Và
cả khi bên ngoài của chúng đã lành lặn, chất
độc thường vẫn còn lại, và do đó còn gây
thương tổn. Nếu chúng ta yêu, chúng ta phải
sẵn sàng chịu thương tích. Tuy nhiên,
điều đó không giúp chúng ta bị đầu
độc bởi sự cay đắng và lòng thù hận.
Sự cay đắng là điều tệ
hại khủng khiếp. “Người ta có thể
sống qua những gian khổ lớn lao
nhưng lại chết bởi những cảm nghĩ
đắng cay” (Solzhenitsyn).
CÂU CHUYỆN KHÁC
Felix Frankfurter là một quan toà nổi
tiếng của Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh
viện ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân
mật và ông biết được nhiều điều
về Lucy.
Trước đó, chưa bao giờ ông
gặp được người nào có lòng quảng
đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt
đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng khám
phá suối nguồn của thái độ của chị.
Điều ông khám phá như sau: Suối nguồn ấy
không có gì là bí ẩn. Nói đơn giản chỉ là sự
áp dụng thực hành đức tin của chị. Ông rất ngạc nhiên bởi vì ông chưa bao
giờ biết có người nào mà đời sống
mỗi ngày được đặt trên nền tảng
tôn giáo như chị.
Lucy không bao giờ biết đức
tin sống động của chị có ảnh
hưởng như thế nào, nhưng cô đã làm cho
Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh
viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến.
Đức Giêsu cần những nhân chứng cho
người ta như chị Lucy đến nỗi
Người có thể trở thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
Một quan hệ thật sự với
Đức Giêsu sẽ có một ảnh huởng cả khi
người có mối quan hệ ấy không đề
cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức
Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ khi thuận
lợi nói về Chúa Giêsu một cách rõ ràng cởi mở.
|