BÀI
LỜI CHÚA 56
QuyỀn sỞ hỮu
Trích sách Sáng thế, ch.23
Bà
Sa-ra, thọ 127 tuổi, và đã chết tại Hêb-rôn, trong
xứ Ca-na-an. A-bra-ham đã để tang than khóc vợ
mình. Đoạn ông chỗi dậy, đi thương
lượng với con cái Khét rằng :
- Tôi chỉ là khách trú ngụ. Xin các ông nhường cho tôi sở đất
phần mộ giữa các ông, để tôi chôn cất
người chết của tôi.
Con
cái Khét đáp :
- Xin vô phép, thưa ngài
! Ngài là ông hoàng của Thiên Chúa giữa
chúng tôi. Thửa đất mộ nào
tốt nhất, xin cứ lấy mà chôn cất người
chết. Không ai trong chúng tôi dám ngăn
cản.
A-bra-ham
chỗi dậy, vái sâu một lượt dân trong xứ mà nói :
- Nếu các ông đồng ý, xin nài
Êph-rôn, con của Xô-kha hộ tôi, xin ông ấy nhượng
cho tôi hang Mác-pê-la, với giá bạc sòng phẳng.
Êph-rôn
hôm ấy cũng ngồi giữa đám, và đáp lời,
có tất cả những người qua lại cổng
thành nghe được rằng :
- Xin vô phép, thưa ngài
! Thửa đất ấy, tôi xin
biếu ngài, và hang trong đó, tôi cũng biếu ngài, có
mặt dân tôi chứng kiến.
A-bra-ham
vái sâu dân trong xứ một lượt và nói :
- Xin ông nhận giá bạc của
thửa đất ấy.
Ông
kia đáp lại :
- Thưa
ngài, thửa đất 400 nén bạc ấy giữa tôi và
ngài thì có là gì ? Ngài cứ
lấy chôn cất người chết của ngài.
Nhưng
A-bra-ham đã cân 400 nén bạc trả cho ông ta, theo giá bạc hiện hành lúc ấy.
Như vậy, cánh đồng của
Êph-rôn, ở Mac-pê-la, cánh đồng và hang trong đó,
tất cả cây cối có trong đồng... đã sang cho
A-bra-ham làm sở hữu trước mặt con cái Khét.
A-bra-ham đã an táng Sa-ra, vợ ông, trong
hang ấy (xem hình), tức là ở Hêb-rôn, trong đất
Ca-na-an.
* Đó là
Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa
!
Suy
niệm Lời Chúa
Câu chuyện Kinh Thánh vừa nghe xảy ra cách đây
khoảng 38 thế kỷ, vậy là 3.800 năm, so với
sử Á Châu thì thời ấy vào cuối đời nhà
Hạ bên Tàu, và giữa đời Hồng Bàng bên
nước ta. A-bra-ham đi thương lượng
để mua một cánh đồng, trong đó có một
cái hang để làm phần mộ chôn cất Sa-ra, vợ
ông, vừa mới chết. Đối với dân Do thái, câu
chuyện này có ý nghĩa quan trọng. Là thế này : Thiên Chúa đã hứa ban cho ông A-bra-ham và
dòng dõi ông đất Ca-na-an như là Đất Hứa làm
cơ nghiệp. Thì đây là lúc thực
hiện lời hứa ấy. Vì từ
trước, ông mới chỉ là khách trú ngụ. Nay lần đầu tiên, ông có quyền sở
hữu một thửa đất trên đất Chúa
hứa ấy. Đây là một khởi đầu, là
của đầu mùa !
Còn đối với chúng ta,
chỉ cốt ý lấy ra bài học về việc đạt quyền
sở hữu, là đề tài của bài học hôm
nay.
1/ Người ta đạt quyền sở
hữu chính đáng bằng nhiều cách:
a.- Bằng cách chiếm đất vô chủ ở hoang
địa. Một vỏ sò đẹp tôi nhặt ở bãi bể, một quả
ngon tôi hái trong
rừng : các cái đó thuộc quyền
sở hữu của tôi. Nếu tôi cho ai, thì
việc cho đó cũng là vì tôi làm chủ vật đó, nên
có quyền định đoạt về của ấy.
b.- Bằng lao động : sức lao động của con
người, khởi sự từ thời hồng hoang
bằng cách hái trái
cây, hay săn thú
vật - lao động ấy lập cho con người
quyền sở hữu các vật ấy. Những vật mà
trí khôn họ nặn óc nghĩ ra, cái mà tay tài khéo họ
nặn ra được : các cái đó
thuộc về của họ - cũng như khi họ
đem sức làm công
cho người khác, thì tiền lương là của
họ, vì công khó của họ đã lập cho họ
quyền sở hữu trên món tiền ấy
c.- Bằng đổi chác, bằng mua bán hay sang
nhượng : như chuyện A-bra-ham mua đất hôm nay.
Việc mua bán là một sự
đổi chác song phương : bên mua
cũng như bên bán đều từ bỏ quyền
sở hữu một vật gì để đánh
đổi lấy vật kia mà mình cần có hay mơ
ước. Trong tất cả các điều
nói trên, cần có sự thật thà và công bằng của hai
bên.
đ.- hoặc bằng di chúc chia gia tài, hoặc bởi
người khác cho.....
Tất cả mọi hình thức lường gạt,
ăn cắp, ăn cướp v.v…
chỉ làm cho họ chiếm
đoạt được của, chứ không lập cho họ quyền
sở hữu của ấy. Sự
chiếm đoạt ấy là bất hợp pháp, là không công
bằng. Tỉ dụ tôi giật của
khách bộ hành chiếc đồng hồ. Hành vi côn đồ ấy làm tôi chiếm
được vật ấy, song không mang lại cho tôi cái
quyền chủ sở hữu của vật ấy. Tôi không có quyền đó. Do đó, pháp
luật đến bắt kẻ gian phi trả lại
của ấy cho chủ cũ của nó. Nói đến
đây, ta thấy ông A-bra-ham trong chuyện trên kia thật là
người đàng hoàng hết mức. Ông được
dân bản xứ coi ông “là ông hoàng của Thiên Chúa giữa
chúng tôi”. Rồi họ nói: “Vậy thửa đất nào
tốt nhất, ông cứ việc lấy...”. Nhưng
A-bra-ham không cậy quyền, ỷ thế. Ông tôn kính
họ, vái sâu họ khắp lượt mà xin họ
nhượng lại một cánh đồng với giá
cả sòng phẳng là 400 nén bạc. Sòng phẳng có nghĩa
là không bớt xén, không cậy uy thế hay võ lực mà ép
giá, không lợi dụng thời cơ mà trả nửa
tiền...
2/ Suy nghĩ kỹ thì
thấy : Thiên Chúa không những đã ban cho con người
quyền bá chủ muôn loài ở thế giới này (như
đã xem trước đây), còn ban phép cho họ có quyền chiếm nó làm của
riêng mình nữa. Do đó, quyền tư hữu
là một quyền Thiên Chúa ban cho loài người, ban
sẵn vào trong bản tính của ta, ta gọi là quyền
bẩm sinh. Nó là sự đòi quyền sống, đòi có
những cái để bảo vệ và phát triển mạng
sống mình. Ngay từ lúc sơ sinh nằm trong nôi, trẻ đã
khư khư giữ lấy bình sữa. Các cô giáo nhà trẻ
suốt ngày phải xử kiện : chốc chốc
lại có đứa vừa khóc vừa đòi : “trái banh
của tôi”, “Trả tao đồ chơi của tao”... Lúc
khác, cô phải can hai bé gái đang cào cấu, túm tóc nhau dành
con búp bê của mình... Nhưng quyền tư hữu ấy
phải được lập cách chính đáng chứ không
do ăn trộm, ăn cắp hay lường gạt, gian
trá...
Vì thế, trong Kinh
Thánh Cựu Ước, sau khi Thiên Chúa ban cho loài
người làm bá chủ muôn loài, thì Người cũng
lại ra lệnh cho con người : “Ngươi sẽ không được trộm
cắp, không được mê muốn nhà cửa, mê
muốn vợ của đồng loại, tôi trai tớ gái
của nó, bò lừa của nó, và bất cứ vật gì
của nó” (Xh, 20.15-17). Trong bức tranh tuyệt
đẹp ấy, bạn có thấy một điểm đen
? Người Do Thái thời xưa coi vợ như một món
đồ mà chồng tậu được, cho nên mới
xếp vợ vào đồng hàng với các của cải
khác như vừa nghe ở câu Kinh Thánh trên. Do đó tội
ngoại tình không được coi như một tội
lỗi đức thanh tịnh, cho bằng một sự
chiếm đoạt bất hợp pháp một vật
thuộc sở hữu của người khác, vi phạm
quyền của người chồng. Người xưa
chưa có cái nhìn đúng về phẩm giá phụ nữ
như ngày nay.
Giới
răn chớ lấy của người do Cựu
Ước công bố, được chính Chúa Giêsu tái xác nhận
trong Tin Mừng Mt 19.18 : Chúa Giêsu trả lời người
thanh niên kia : “Nếu anh muốn
vào sự sống thì hãy giữ các giới răn : chớ
giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm
cắp...”. Thời Giáo
Hội sơ khai, các Kitô hữu còn sống hiệp
thông với nhau đến nỗi có vẻ như
họ từ bỏ cả quyền tư hữu : “Họ chỉ có một tấm
lòng và một tâm hồn... Hết thảy họ đều
coi mọi sự như của chung : đất đai,
của cải, nhà cửa thì bán đi, đem giá cả các
vật bán được mà đặt dưới chân các
Tông đồ, để phân phát cho mỗi người, ai
nấy tùy theo nhu cầu của mình, để không có ai
trong họ phải thiếu thốn” (Cv 2.42-47; 4.32-35).
Có người đã nghĩ Giáo Hội sơ khai
thực hành một chủ nghĩa cộng sản
đạo đức. Câu chuyện thuật ngay sau đó
đã làm chứng rằng không phải thế : Hai
vợ chồng Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra bán một thửa
đất, rồi đồng ý giữ lại một
phần tiền, sau đó đem phần còn lại
đặt dưới chân các Tông Đồ (ra vẻ là dâng
tất cả). Thấy cách gian trá ấy ông
Phê-rô mới trách họ : “Anh
Kha-na-ni-a, sao anh đang tâm lừa dối không phải
người phàm, mà đã lừa dối Thánh Thần, khi
giữ lại một phần giá thửa đất ? Khi
đất chưa bán thì nó vẫn là của anh. Bán đi
rồi thì chẳng phải anh vẫn có quyền sử
dụng tiền bán đó sao?” (Cv 5.4-9) Qua đó thì thấy các
Kitô hữu không ai bị ép buộc phải bán nhà,
đất đai, họ vẫn giữ quyền tư
hữu ; và sau khi bán rồi, họ vẫn có quyền
định đoạt về số tiền của họ
đã bán được. Khi họ chia sẻ của cho anh chị em nghèo khó để ai
cũng có đủ điều cần mà sống, đó là
họ muốn thi hành đúng như ý Thiên Chúa, khi ban cho tất
cả mọi người trong loài người quyền bá
chủ vạn vật.
3/ Lý do của quyền tư
hữu : Con người được Thiên Chúa
dựng nên giống hình ảnh Người (Kn 1.26-27). Mà
Thiên Chúa là chúa tể muôn loài muôn vật. Vậy con
người cũng được giống Thiên Chúa mà làm
chủ mọi vật. Ta giống Thiên Chúa không phải
bằng nét thể xác,
vì Thiên Chúa là tinh thần vô hình, có ai thấy đâu mà
giống. Vậy ta giống Thiên Chúa bởi các nét tinh thần, tức là
các đức tính, các nhân đức, các phẩm chức
như tính bất tử (Kn 2.22), sự tự do, thông minh, ý
chí, tình yêu, quyền lực, quyền làm chủ và cai
quản vũ trụ... Như thế, khi ta làm sở
hữu chủ một vật gì, thực ra là ta cử
hành một hành vi vương giả, chúa tể, hành vi
của một vị vua, vị bá chủ : làm chúa tể
trên các vật thuộc về ta đó, như Chúa đã phán
: “Hãy làm bá chủ trên nó, và cai
trị trên tất cả mọi vật” (Kn 1.28).
Song tại sao, vì lý do gì Chúa cho ta làm chủ sự
vật như thế ? Đó là vì các của cải vật
chất là những
phương tiện có mục đích giúp ta bảo
vệ mạng sống, phát triển bản thân ta, hầu
dễ dàng đạt cứu cánh đời mình là Thiên Chúa
và hạnh phúc đời đời. Tỉ dụ như áo
quần nó giống như da bọc thân ta, bảo vệ
thân thể ta khỏi nóng, lạnh, gai góc, muỗi chích... Các
đồ dùng khác cũng giống như tay chân ta nối
dài ra : tay không làm sao xiết bù loong ? Chiếc kìm sẽ giúp
đôi tay yếu ớt. Cái nhà che nắng che mưa, và
tạo một khung cảnh sống thân mật cho mình và cho
gia đình. Tiền là phương tiện để
đổi chác với người khác lấy đồ
ăn, thức uống và các vật cần dùng. Và các
điều khác đều giống vậy...
Thiên
Chúa quan phòng đã cho loài người đủ
phương tiện như thế để làm chủ và
trách nhiệm về đời mình. Vì thế, theo nguyên tắc
bình quyền, ai cũng có quyền được có
đủ phương tiện vật chất để
sống cuộc đời mình và phát triển bản thân.
Nhưng thảm thay ! Do lòng ích kỷ, tham lam của một
số người không nhỏ, làm người khác bị
tước đoạt mất quyền làm chủ của
cải cần thiết cho cuộc sống, bị dồn
vào một cuộc sống mất phẩm giá, không còn là con
người, nhiều khi không khác gì súc vật : đó là
một hoàn cảnh phi luân, trái ý muốn Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa đã ban chung cho loài người
vũ trụ, muôn loài muôn vật, thì Ngài lại trao cho
họ trách nhiệm tổ chức và phân phối tùy theo nhu
cầu, tùy tài lực..., để đừng có kẻ
phải túng thiếu, kẻ khác quá giàu có, no đầy, phè
phỡn. Do đó, Giáo Hội Công giáo, chiếu theo ý Chúa,
giữ vững lập trường : chấp nhận
mọi người có quyền tư hữu, song không
ủng hộ quyền tư hữu vô hạn và vô tổ
chức, vô trách nhiệm do tham lam và ích kỷ mà con
người muốn vơ vét cho mình, không nghĩ
đến công ích chung của xã hội.
Tích truyện
Hai ruộng dưa
Có hai
người, một thuộc nước Lương,
một thuộc nước Sở, ở gần nhau,
đều trồng dưa. Người nước
Lương siêng bón, tưới, nên dưa tốt.
người nước Sở lười biếng nên
dưa xấu ; nhưng thấy dưa của bạn tốt
lại đâm lòng ganh tị, mỗi đêm lén qua cào phá
đến nỗi làm dưa héo cằn. Người
nước Lương đi thưa quan huyện. Ông này
bảo người ấy :
- Đừng thưa
kiện, cũng đừng báo thù, cào phá trả đũa,
chỉ thêm gây oán. Mỗi đêm, người hãy đi
tưới dưa cho người ta mà đừng
để cho họ biết.
Người nước Lương vâng lời,
đêm đêm sang tưới và xới đất, vun
gốc. Sau đó, dưa của người nước
Sở lười biếng đâm tốt tươi.
Hỏi ra mới biết người nước
Lương lén tưới hộ, đâm ra mến phục
người ấy vô cùng.
ù
|