BÀI LỜI CHÚA 45
Yêu NHAU đẾn thuỞ bẠc
đẦu (Phần I)
Trích sách Sáng thế, 12.10-20
Nơi
A-bra-ham ở là đất Ca-na-an xảy ra đói kém,
A-bra-ham phải xuống Ai cập để ngụ
nhờ. Sắp bước chân vào xứ lạ, ông bảo
vợ là Sa-ra :
- Này mình ơi ! Tôi biết mình là
gái có nhan sắc. Vua quan Ai cập vừa nhìn thấy mình,
tất sẽ giết tôi để chiếm lấy mình. Tôi
xin mình cứ nói mình là em gái của tôi, mong tôi
được phúc lộc vì mình và nhờ mình tôi
được sống toàn mạng.
Quả
thực đã xảy ra đúng như A-bra-ham dự đoán
: Dân Ai cập thấy bà Sa-ra là một phụ nữ xinh
đẹp tuyệt trần, cả tướng lãnh của
vua Pha-ra-ô cũng ca ngợi sắc đẹp của bà
trước mặt vua, và thế là bà bị đem tiến
vào đền vua.
Vì bà, vua đã ban phúc
lộc cho A-bra-ham của cải, chiên bò lừa, và lạc
đà, tớ trai tớ gái. Nhưng vì Pha-ra-ô làm trái
luật, dám lấy vợ người, nên Thiên Chúa đã
phạt vua và cả hoàng tộc nhiều tai họa dữ
dằn. Cuối cùng, vua phải triệu A-bra-ham vào cung (xem
hình) và bảo:
- Tại
sao ngươi không tỏ thật Ta biết nàng là vợ
ngươi, mà lại nói nàng là em gái, khiến ta đã trót
lấy nàng làm vợ? Thôi ! Này vợ ngươi,
ngươi lấy lại mà đi đi !
* Đó là
Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
Suy
niệm Lời Chúa
Qua câu
chuyện trên, mới thấy tình yêu giữa vợ
chồng A-bra-ham thật là gắn bó, keo sơn - một tình
yêu biết nâng đỡ nhau, giúp nhau lúc hoạn nạn, dù
phải hi sinh. Bà Sa-ra đã chấp nhận cứu mạng
ông A-bra-ham, chồng bà, với cái giá hi sinh là phải lìa
người chồng bà yêu thương mà vào đền Vua
làm cung phi. Không yêu thương thì sao bà theo chồng đi
từ quê hương xứ sở đến đất quê
người.
“Có chồng thì phải theo
chồng,
Chồng đi hang rắn, hang
rồng cũng theo” (Ca dao).
Vào
đền Vua, bà không ham vinh hoa phú quí, trái lại, phải
khổ sở, nhục nhằn. Có cô nào, bà nào lại thích
bỏ người chồng yêu quí của mình, đến
một nơi xa lạ, đem thân làm đồ chơi cho người
khác không ? Nếu chúng ta soạn thành một vở kịch
cải lương, chắc sẽ được nghe
những bài ca ai oán não lòng của người cung phi Sa-ra
lúc ấy. Nhưng Thiên Chúa đã thấy và đã phạt
kẻ làm trái - cho dù Vua đó vô tình không biết Sa-ra là
vợ A-bra-ham - để thưởng cho tấm lòng trung
trinh của Sa-ra. Ta thử tưởng tượng, giây
phút Vua trả nàng lại cho chồng, hai vợ chồng
sung sướng thế nào..., mừng mừng tủi
tủi, hai người đem nhau về nhà chắp lại
mối duyên xưa.
Chiếu
theo bài học Lời Chúa dạy đó, kỳ này ta bàn về tình yêu chân thực trong
đời vợ chồng. Nam nữ
được Thiên Chúa dựng nên khác nhau về thể
xác, tính tình, năng khiếu, cốt để bổ túc
lẫn nhau. Và sự bổ túc này chỉ thực hiện
tới mức đầy đủ trong hôn nhân ; ở
đó, mỗi người chu toàn phần việc riêng mình,
và hai phần việc đó đem hợp lại thành
một việc chung, tạo nên bầu khí yêu thương,
hòa hợp, trung tín. Và bầu khí ấy rất cần
để cho họ sống hạnh phúc đã đành, còn
để đón nhận đoàn con mà tình yêu họ sẽ
chung nhau sinh ra. Cứ như thế, họ tiến
bước trong cuộc hành trình về quê hương
vĩnh cửu, nước của tình yêu, Nước
của Thiên Chúa, nước thiên đàng vậy.
Nói thì
dễ, thực hành mới khó. Lập gia đình thì dễ,
tạo hạnh phúc gia đình mới khó.
Hôn
nhân là con đường dài, con đường này lại
lắm chông gai. Hôn nhân là một tổ ấm, tổ ấm
ấy phải kiên nhẫn xây dựng mới thành, nếu
không sẽ gặp thất bại, nguy cơ đổ
vỡ. Cho nên Đức Giáo Chủ Piô XI đã lưu ý khi
đôi bạn chọn lựa nhau để bước vào
hôn nhân: “Người bạn trăm năm có thể là
một trợ lực mạnh mẽ, hay ngược
lại, là một nguy hiểm hoặc trở ngại
lớn lao cho đời sống tín hữu”. Nói nôm na,
vợ chồng có thể hoặc giúp nhau lên Thiên Đàng,
hoặc đẩy nhau xuống Hỏa Ngục.
Vậy
các bạn trẻ, các bạn đã học hỏi kỹ
về hôn nhân chưa, tức là về cuộc đời
quan trọng các bạn sắp bước vào? Còn các
người đã lập gia đình, có hiểu biết mình
phải xây dựng tổ ấm sao cho nó ấm, chứ
đừng để thành tổ lạnh, ở đó, hai
người lạnh lùng với nhau, mặc kệ nhau, có
khi còn làm khổ nhau, làm hại nhau nữa kia !
Nói
tổng quát, hôn nhân gồm hai điểm chính. Kinh Thánh
đã dạy rõ về hai điều ấy ngay từ trang
đầu:
1/ Về tình yêu khắng khít, bền vững : Ta đã học ở bài kỳ
trước : Thiên Chúa dựng cho con người một
trợ giúp đương đối... Khi thấy nàng, ông
kêu lên : “Đây là xương
thịt tôi...”. Và Kinh Thánh kết luận : “Bởi thế, đàn ông sẽ
lìa bỏ cha mẹ mà khắng khít với vợ mình và chúng
sẽ nên một thân xác...” (Kn 2.18-24). Tình yêu phu phụ keo
sơn ấy được Tân Ước lấy
gương tình yêu của Chúa Giêsu yêu Hội Thánh mà dạy
: “Chồng hãy yêu mến vợ
như Chúa Kitô đã yêu mến Hội Thánh, đến
nỗi hi sinh chính mạng sống mình, để Hội
Thánh nên xinh tốt, thánh thiện... Còn vợ cũng
phải yêu mến, phục tùng chồng như Hội Thánh
phục tùng Chúa vậy” (Ep 5.22t).
2/ Về sinh sản, giáo dục con cái : Kinh Thánh viết : “Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam có
nữ, rồi Thiên Chúa chúc lành cho cuộc hôn phối
của họ và phán bảo : ‘Hãy sinh sản ra đầy
mặt đất !”, và giáo dục sao cho con cháu các
ngươi thành các con người tốt và có đủ
khả năng, tài trí mà “làm bá
chủ mọi loài mọi vật mà Ta trao vào tay các
ngươi” (Kn 1.27-28).
Đức
Giáo Chủ Phaolô VI quả quyết : “Tình yêu vợ chồng
… không chỉ chung một mái nhà, mà còn khiến họ cùng
chung sống, cùng chia sẻ tất cả cho nhau, trở
thành một thân thể. Hôn nhân giúp họ tăng tiến chính
bản thân mình, tạo hạnh phúc cho nhau và tiếp tay
với Thiên Chúa kiến tạo những mầm mống
hữu ích cho xã hội. Tất cả những quyền
lợi và bổn phận đối với nhau ấy…
lẽ dĩ nhiên, đòi hỏi họ phải kết
với nhau một giao ước, một hợp
đồng bền vững, bất khả phân ly...”.
Tóm
lại thành hai điều :
- Trong tình yêu, họ kết hợp
thành một thân thể, nhờ đó làm tăng tiến
bản thân họ và tạo cho họ hạnh phúc.
- Tiếp tay với Thiên
Chúa sinh sản và giáo dục con cái tốt.
Xem
ra, ai cũng biết hai điểm chính yếu ấy
của hôn nhân, song trong thực tế, ta thấy
người ta đi lệch cái này, lạc cái kia. Có
thời không xa lắm, người ta không đếm xỉa đến tình yêu của cá
nhân con cái, cách riêng bên phía con gái, người ta không
thèm biết nó thương ai. Chuyện hôn nhân là : “Cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, do cha
mẹ gả bán, tính toán hơn thiệt, nhiều khi con gái
đến đêm động phòng mà chẳng biết
mặt chồng: “Lấy chồng chẳng biết mặt
chồng, Đêm nằm
cứ tưởng là ông láng giềng”. Cho nên, phận gái
rất mong manh như tấm lụa đào, không biết
sẽ vào tay ai, vào tay người nào trả giá cao nhất :
“Con gái có hai bến sông, Bến đục thì chịu,
bến trong thì nhờ”. Mà nếu chẳng may “trái duyên, trái
kiếp thì cuộc sống vợ chồng coi như hèo
đục vênh”.
Cho
nên, kết quả của hủ tục thời đó
đã gây ra bao đau khổ, đang khi hôn nhân là để
tạo hạnh phúc cho đôi vợ chồng : “Tiếc con
gái khôn lấy thằng chồng dại, như bông hoa lài,
cắm bãi cứt trâu”.
Tại sao có việc đáng
buồn ấy ? Đó là bởi người ta nhắm quá
nhiều đến sự nối dõi tông đường. Người vợ là để
đẻ. Đẻ cho có người làm việc
và để cho có con cháu nối dòng : “Chiều người
lấy của, chiều chồng lấy con” ; do đó, “Gái
ơn chồng mà được bồng con thơ”. Nếu
người đàn bà không thể có con, thì một là
phải cưới vợ lẽ cho chồng để
đẻ đứa con nối dòng, còn không thì coi như
bỏ đi, theo luật “thất
xuất”, sẽ bị chồng rẫy bỏ, bị
đuổi đi, vì đó là một cái tội (x. Phan
Kế Bính : Việt Nam phong tục, tr.66). Chúa Giêsu đã nêu
ra nguyên tắc căn bản cho công cuộc giải phóng
phụ nữ, khi Ngài xác quyết : “Từ khởi nguyên, là nam là nữ, Tạo hóa đã
dựng nên chúng (bình quyền)… Bởi thế mà đàn ông
sẽ bỏ cả cha mẹ mình và khắn khít với
vợ và cả hai chúng sẽ nên một thân xác.” (Mt
19.4-5)
Tích truyện
Khi qua cửa sổ
đầu chái, Loan bước rón rén đi thật khẽ,
vì thấy có tiếng bà Phán (mẹ chồng) ở trong…,
nàng nghe rõ bà Phán nói :
-
Tôi cho anh lấy nó làm nàng
hầu.
Tiếng
Thân (chồng Loan) nói rất khẽ :
-
Con chỉ sợ nhà con nó
không bằng lòng.
Bà
Phán cao giọng :
-
Tôi cho phép anh lấy.
Quyền đâu ở vợ anh mà anh sợ. Vả lại
anh vừa bảo mợ ấy không sinh đẻ gì được
nữa. Nếu việc này (Thân tằng tịu với
một cô gái tên Tuất) không xảy ra, thì tôi cũng
phải nghĩ đến việc lấy vợ bé cho anh
kia mà. Thế nó (cô gái tên Tuất) có thai được
mấy tháng rồi ?
-
Thưa mẹ độ
bốn, năm tháng nay.
… Loan không
hề mảy may sửng sốt hay đau đớn vì cái
tin đó. Nàng nhận rằng sở dĩ có chuyện này là
vì nàng không sinh đẻ nữa, mà Thân thì không bao giờ
chịu suốt đời không có con, còn bà Phán sở dĩ
bằng lòng ngay chỉ vì Tuất nay mai sẽ cho bà một
đứa cháu, biết đâu không là cháu trai – để
nối dõi – Còn nàng thì là một đứa vô dụng và nên
biết thân phận như thế.
[…] Thấy Loan (đi vào), bà
Phán bảo :
-
Cậu ấy đi lại với con Tuất, nay con
Tuất đã có mang … Tôi thì tôi cho con nào cũng là con.
Cậu ấy đã trót lỡ mà bỏ nó thì tội
nghiệp, nên tôi định cưới nó về cho cậu
ấy. Nếu mợ còn sinh đẻ mà cậu ấy
đa mang như thế thì cũng đáng trách….
Bà Phán nói đến đây
ngừng lại đợi Loan trả lời. Loan cúi
mặt lẳng lặng một lúc rồi đáp :
-
Thưa mẹ, việc đó tùy mẹ cả.
Là vì nàng biêt rằng bà Phán
hỏi ý kiến để lấy lệ, chứ thật
ra không kể nàng vào đâu. Nàng không có một quyền
nhỏ mọn nào về việc lấy vợ lẽ cho
chồng.
(Lược trích Tiểu
thuyết ĐOẠN TUYỆT
của Nhất Linh, trang 168-171, Nxb. Văn Nghệ, Tp
HCM, tái bản 1999)
|