Có bao giờ chính người
Kitô hữu chối bỏ Đức Kitô không? Suy niệm của JKN.
Câu
hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu
lại bị từ chối tại chính làng của mình? tại chính đất nước Do Thái? còn dân ngoại thì lại đón nhận Ngài
để cuối cùng trở nên Dân Ngài? Liệu lịch
sử có thể tái diễn tương tự như
thế đối với Kitô giáo không?
2. Đức Giêsu có muốn dành
ưu tiên cho quê hương hay dân tộc mình không? Ngài có
thành công trong việc dành ưu tiên ấy cho quê hương
hay dân tộc mình không? Tại sao?
3. Điều đã xảy ra
với Do Thái có thể xảy ra tương tự với
Kitô giáo không? Chúng ta phải làm gì để tránh vết xe đã đổ?
CHIA
SẺ
1. Các ngôn sứ thường bị
từ chối tại chính quê hương mình
Đoạn Tin Mừng hôm nay và những
đoạn khác tương tự trong các sách Tin Mừng
khác cho thấy: những người cùng quê cùng làng với
Đức Giêsu có vẻ coi thường Ngài và không tin
ở Ngài cho lắm. Vì đối với
họ, Đức Giêsu chỉ là con của một bác
thợ mộc nghèo hèn, và của một phụ nữ không
danh giá gì trong làng. Nếu chúng ta ở vào
địa vị của dân chúng làng Nagiarét, chưa chắc
chúng ta đã suy nghĩ và đánh giá về Ngài khác hơn
họ. Và nếu có một ngôn sứ nào xuất
hiện ở thời đại này, tại thành phố hay
tỉnh ta đang sống, chưa chắc ta đã nhận
ra và đánh giá vị ấy một cách đúng đắn.
Thông thường, người ta
thường đánh giá một người tùy theo những gì thấy được ở
bên ngoài, chứ không thấy được giá trị thâm
sâu ở bên trong. Và càng là người thân quen với vị
ngôn sứ, thì càng khó đánh giá đúng đắn vị
ngôn sứ ấy, vì các ngôn sứ thường mặc
lấy những dáng vẻ bên ngoài rất bình thường,
và cũng thường có quan niệm rất khác với
người đương thời. Chính vì
thế, các ngôn sứ ít được người
đồng thời và đồng hương biết
được giá trị con người mình, thậm chí
còn bị coi thường, khi rẻ, kết án. Vì
thế, Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật các ông: không
một ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương mình».
2. Các ngôn sứ có muốn ưu đãi
quê hương mình cũng không được
Vì thường bị
người đồng thời, đồng hương
hay đồng đạo coi thường và không tin, nên các
ngôn sứ thường không thể hoạt động
hữu hiệu hay có kết quả tốt đẹp
tại quê hương hay thời đại mình. Chẳng hạn Đức Giêsu không
thể làm được nhiều phép lạ tại
Nagiarét, vì họ cứng lòng tin (x. Mt 13,58); đồng bào và
đồng đạo của Ngài chẳng những không tin
Ngài mà còn tìm cách giết Ngài nữa. Thái độ của
những người đồng hương, đồng
đạo hoặc đồng thời với Ngài như
thế, khiến họ không được lợi lộc
gì vì được làm người đồng
hương, đồng đạo hay đồng thời
với vị ngôn sứ cả.
Đức Giêsu đã
kể ra những trường hợp cụ thể minh
chứng điều ấy, chẳng hạn trường
hợp của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa. Thời Êlia, khi Israel bị đói, ông
chẳng giúp một bà góa khốn khổ nào trong
nước cả, mà lại giúp một bà góa ở tận
đâu đâu, vì bà này tỏ ra yêu quí, tin tưởng và
trọng vọng ông một cách đặc biệt. Thời
Êlisa, biết bao người Israel bị phong hủi thì ông chẳng
chữa cho ai, mà lại chữa cho một người
từ ngoại quốc đến.
3. Thực tế ấy đã xảy ra
trên nhiều bình diện khác nhau
Do tình cảm tự nhiên, ngôn sứ nào
cũng đều muốn dành ưu tiên quyền lợi cho
quê hương mình, nhưng nhiều khi vì thái độ
khinh thường và cố chấp của người
đồng hương, nên quê hương của các vị
không hưởng được cái quyền ưu tiên mà các
vị muốn đặc biệt dành cho. Để rồi
cuối cùng sự ưu đãi đó lại
được dành cho những người hay dân tộc xa
lạ ở đâu đâu nhưng lại xứng đáng
với sự ưu đãi đó hơn.
Thật vậy, Đức Giêsu luôn luôn
muốn dành ơn cứu độ ưu tiên cho
người Do Thái (x. Ga 4,22; Mt 10,6; 15,24).
Nhưng Người Do Thái lại từ
chối sự ưu tiên đó, nên ơn cứu độ
lại được đem đến cho các dân tộc
khác. Nhiều dụ ngôn của
Đức Giêsu nói lên thực trạng đó. Chẳng
hạn dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), dụ ngôn tiệc
cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24).
Bài Tin Mừng lễ Hiển Linh cho
thấy các kinh sư Do Thái - đại diện cho dân tộc
được Thiên Chúa ưu tiên dành cho mọi quyền
lợi thiêng liêng - mặc dù có Kinh Thánh trong tay và biết
được chính xác Đức Giêsu sinh ra ở đâu,
nhưng họ lại không thèm tìm đến Ngài, mà lại
còn muốn làm hại Ngài. Còn các đạo sĩ -
đại diện cho dân ngoại, dân không được
ưu tiên - từ mãi đâu đâu tới và phải nhờ
tới các kinh sư Do Thái mới biết được
Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì lại quyết tâm tìm
kiếm Ngài và họ đã tìm thấy.
Sự việc ấy là hình bóng của
thực tế xảy ra sau đó: Mặc dù Đức Giêsu
sinh ra tại Do Thái, và dân Do Thái là dân được ưu
tiên hưởng ơn cứu độ, thì thực tế
là cho tới nay, dân Do Thái vẫn chưa nhìn nhận
Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh Nhân Loại, mà
vẫn còn tiếp tục chờ đợi. Còn
những dân tộc đang tin vào Đức Giêsu hiện nay
thì lại là những dân tộc bị dân Do Thái xưa khinh
thị và gọi là dân ngoại. Thế
là ứng nghiệm điều Đức Giêsu tiên báo trong
hai dụ ngôn vừa nêu trên.
4. Nói người lại nghĩ
đến ta
Lịch sử thường hay tái
diễn lại theo kiểu tương
tự. Điều đó khiến ta phải
suy nghĩ vì nó có thể xảy ra cho chính chúng ta. Hiện nay, Kitô giáo luôn tự hào mình là tôn giáo do
chính Thiên Chúa thiết lập, được chính Thiên Chúa
mặc khải những chân lý thâm diệu nhất, và là con
đường chính thống nhất dẫn đến
ơn cứu độ. Kitô giáo với
các tôn giáo khác cũng phần nào tương tự như Do
Thái giáo với dân ngoại xưa. Liệu
điều đã đúng với Do Thái giáo có đúng một
cách tương tự với Kitô giáo không?
Dân Do Thái xưa lúc nào
cũng tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo duy
nhất đúng đắn vì là tôn giáo duy nhất
được Thiên Chúa mặc khải. Còn các dân tộc khác thì
thờ thần tượng, đi trong sai lạc. Nhưng kết cục ra sao? Dân
Do Thái không chỉ phủ nhận Đức Giêsu mà còn
giết Ngài nữa. Họ từ
chối ơn cứu độ, và ơn cứu độ
đã được trao cho dân ngoại. Dân ngoại lại đón nhận ơn cứu
độ và gia nhập Giáo Hội. Thế
thì xét cho cùng, đối với dân Do Thái, việc có tôn giáo
duy nhất đúng đắn, việc nắm
được nhiều chân lý hơn các dân tộc khác có ích
lợi gì?
Như thế, xem ra điều quan
trọng không phải là có tôn giáo chân chính cho bằng
sống đúng những gì tôn giáo mình đòi hỏi,
sống đúng theo lương tâm
của mình. Hãy nghe thánh Phaolô nói: «Người ta
được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe
biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề
Luật» (Rm 2,13). Vì thế, nếu
«bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi
phạm Lề Luật, thì như vậy bạn làm nhục
Thiên Chúa!» (Rm 2,23).
Tương tự, nếu chúng ta có tôn giáo chân chính mà
lại không thèm sống đúng theo tôn
giáo ấy, thì ta cũng làm nhục Thiên Chúa, Đấng
thiết lập tôn giáo ấy. Lúc ấy chúng ta rất
xứng đáng với lời kết án của thánh Phaolô:
«Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà
danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân» (Rm 2,24). Lúc ấy, tôn giáo chân chính có ích lợi gì
cho ta, hay đó chính là lý do để Thiên Chúa kết án chúng
ta?
Bài Tin Mừng hôm nay chính là lời
cảnh tỉnh chúng ta: Đừng để tinh thần
yêu thương của Kitô giáo lại bị chính các Kitô
hữu như chúng ta coi thường, không thèm sống, mà người
sống tinh thần ấy lại là những người
thuộc các tôn giáo khác. Vậy tốt
nhất, chúng ta hãy đem tinh thần yêu thương
của Đức Giêsu ra áp dụng thật sự vào
đời sống. Đừng để
trường hợp của Do Thái giáo lại tái diễn
một cách tương tự với Kitô giáo, trong đó
người chủ động tái diễn trường
hợp ấy lại chính là chúng ta!
CẦU
NGUYỆN
Lạy Cha, trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu đã gián tiếp cảnh giác chúng con: chính
quê hương, đất nước, dân tộc và
đồng đạo của Ngài - là những người
mà Ngài muốn dành ưu tiên hưởng ơn cứu
độ Ngài đem lại - lại từ chối Ngài.
Hiện nay, rất có thể chúng con đang đi vào
vết xe đã đổ ấy: ngoài
miệng chúng con luôn tuyên xưng mạnh mẽ niềm tin
vào Đức Giêsu, nhưng đời sống của chúng
con thì lại đi ngược lại những
điều Ngài dạy. Chúng con tuyên xưng hay biểu
lộ đức tin mạnh mẽ ra ngoài để che
lấp thực tế phủ nhận đức tin ấy
ở bên trong. Xin giúp chúng con ý thức rằng
thái độ giả hình ấy vô cùng có hại cho chúng con.
Xin Cha cứu chữa chúng con khỏi thái độ ấy.
|