Tôn giáo là đường dẫn
chúng ta từ cõi tạm đến cõi đời đời, mà không ai có thể từ chối lên đường. Có những con đường trái chiều, thì không thể đường nào cũng dẫn đến
cõi vĩnh phúc. Thờ
ơ với tôn giáo là kẻ đi đường nhưng không
cần biêt đâu là đich đến. Chọn lầm tôn giáo không phải đau khổ một đời, mà đau
khổ đời đời. Để thấy sự vật, chúng ta cần ánh sáng. Để chiếm hữu đạo
thật,
chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, Đấng
là đường,
là chân lý,
là sự
sống.
Người thật sự yêu chân lý và đã biêt Thiên Chúa giáo, thì dù có phải mất mạng sống, cũng không bỏ Thiên Chúa giáo. Câu chuyện có thật dưới đây, hay hơn tiểu thuyết,
rất hào hùng, rất cảm động, và là gương sáng cho chúng ta, những
người có diễm phúc là Kitô hữu. – NguyễnHyVọng --
Chủng sinh Phaolô Bột: anh hùng trong thống hối
Tài liệu về
cuộc đời, nhân đức và cái chết vinh quang của Chủng Sinh Phaolô Bột (1841-1858) phần lớn trích từ tác phẩm của
Linh Mục Gustave Monteuuis: “Anh hùng
trong thống hối. Phaolô Bột, thiếu niên tử đạo Đàng Ngoài”. Tác phẩm trúng
giải Hàn Lâm Viện Pháp và được hai nhà xuất bản Thánh-Phaolô ở thủ đô Paris (nước
Pháp) và Hội Thánh-Charles ở Grammont (vương quốc Bỉ) đồng phát hành năm 1905.
Cha Gustave
Monteuuis viết lời tựa:
“Tiểu sử vị
tử đạo Phaolô Bột lần lượt tỏ lộ cho chúng ta thấy: trước tiên, nỗi đau đớn và
những dày vò của một thiếu niên trong phút chốc bị sa ngã vì yếu đuối; tiếp đến,
lòng nhiệt thành thánh thiện và tình yêu anh dũng của người môn đệ quảng đại,
khóc lóc thảm thiết về lỗi lầm của mình và sau cùng, lòng cương quyết dùng
chính máu đào xóa tẩy điều sỉ nhục xúc phạm đến Vị Thầy Chí Thánh dấu yêu.
“Hoàn cảnh sống
và lộ trình Chủng Sinh Phaolô Bột trải qua thật đáng chú ý. Chúng ta cảm thông
nỗi đau đớn và lòng thống hối, đồng thời nồng nhiệt tán thưởng cuộc hoán cải và
cái chết vinh quang của Chủng Sinh Phaolô Bột. Một thi sĩ viết:
Không bao giờ
lỗi bổn phận là điều đẹp nhất,
Nhưng thống hối trở về với bổn phận còn đẹp hơn.
“Nói thế,
chúng ta không chối bỏ vẻ đẹp nguyên tuyền của lòng thanh sạch vô tội. Nhưng
chúng ta cũng không thể không ca tụng cố gắng của một tâm hồn, sau khi nhận ra
lầm lỗi, đã quyết định thoát khỏi vực sâu tội lỗi và vươn cao trên đường thánh
thiện bằng trọn tình yêu thống hối của mình”.
I. CUỘC ĐỜI THƠ TRẺ
Phaolô Bột
chào đời năm 1841 tại thôn Kẻ-Lựa thuộc giáo xứ Sơn-Miêng. Kẻ-Lựa nay thuộc
giáo xứ Canh-Hoạch. Sơn-Miêng ngày nay là Sơn-Lãng thuộc xã Hoa-Sơn, huyện Ứng-Hòa
tỉnh Hà Tây, Tổng Giáo Phận Hà Nội. Trước kia Sơn-Miêng thuộc huyện Thanh-Oai,
cách tỉnh Hà Nội 35 cây số về hướng Nam. Vào thời kỳ đó, Sơn-Miêng là một trong
những giáo xứ rộng lớn nhất của giáo đoàn Đông Đàng Ngoài.
Phaolô Bột
được diễm phúc là đồng hương với thánh Phanxicô
Nguyễn Cần (1803-1837), Thầy Giảng. Thầy Giảng Phanxicô Nguyễn Cần tử vì đạo
ngày 20-11-1837, dưới thời vua Minh Mạng. 150 năm sau, Chúa Nhật 19-6-1988, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) tôn phong Thầy Giảng Phanxicô Nguyễn Cần
lên hàng hiển thánh cùng với 116 vị Tử Đạo Việt Nam.
Khi bản án
châu phê từ Kinh Đô ra tới Hà Nội, quan tổng trấn khuyên Thầy Cần nhắm mắt bước
đại qua Thánh Giá. Thầy Cần nói:
- Mắt thì nhắm được chứ lòng và trí khôn
không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm!
Tại pháp trường,
viên quan cố thuyết phục lần chót:
- Anh có thể
cứu mạng mình. Anh không trộm cướp, cũng không làm loạn. Bản án của anh còn có
thể rút lại, chỉ cần anh bước một bước qua Thập Tự.
Thầy Giảng
Phanxicô Nguyễn Cần trả lời:
- Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ án
mà thi hành!
Thi hài vị tử
vì đạo Cần được an táng tại Châu-Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn-Miêng.
Thời thơ ấu,
khi theo mẹ đến nhà thờ Sơn-Miêng, cậu bé Phaolô Bột thường có dịp kính viếng
di hài thánh Phanxicô Cần. Hẳn đây là một trong những lý do nuôi dưỡng ơn gọi
sau này. Vào thời kỳ ấy, Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam trải qua cuộc bách hại
dữ dội. 5 Linh Mục Thừa Sai người Pháp bị bắt và bị kết án tử hình.
Về phía
Phaolô Bột, cậu bé không nếm hưởng nhiều niềm vui gia đình. Em trai Bột đột ngột
qua đời lúc chưa tròn một tuổi. Sau đó đến lượt thân phụ - ông Phêrô Bính - từ
trần năm 1845, khi Bột mới lên 4. Phaolô Bột trở thành quí tử duy nhất sống với
mẹ góa, bà Maria Mận.
Từ khi chồng
qua đời, bà Mận một mình tần tảo nuôi con. Bà hết lòng yêu thương và giáo dục
con nên người. Bà là người mẹ Công Giáo đạo đức, giống như bao bà mẹ gương mẫu
khác. Sơn-Miêng lúc ấy nổi tiếng về nghề chằm nón. Bà Maria Mận học nghề và
không bao lâu có thể tự tay chằm những chiếc nón lá xinh xắn. Cậu bé Phaolô Bột
ngoan ngoãn giúp mẹ. Khi đến tuổi có thể tự di chuyển, chính Phaolô Bột mang
nón mẹ làm ra chợ Sơn-Miêng bán. Nét kháu khỉnh, khuôn mặt trong sáng và tính
tình dễ thương của cậu thiếu niên bán nón lôi kéo sự chú ý của khách hàng. Nhiều
người đến mua nón của cậu. Thế là mỗi buổi chiều, Phaolô Bột hân hoan mang về
cho mẹ túi đầy tiền. Bà Maria Mận cũng vui mừng không kém. Nhờ tiền bán nón,
hai mẹ con có thể sống hàng ngày dùng đủ và nhất là, bà có ít tài chánh dưỡng dục
con thành tín hữu Công Giáo tốt.
Phaolô Bột
là niềm vui và là niềm an ủi rộng lớn nhất của bà Maria Mận trong cảnh góa bụa.
Tuy nhiên, bà không đơn độc trong việc giáo dục con. Em gái bà cũng hết lòng
yêu thương cháu. Nhờ sự chăm sóc của Mẹ và Dì, cậu Phaolô Bột tuy mới 10 tuổi,
đã trổi vượt nhóm trẻ trong làng về nét ngây thơ và lòng đạo đức.
Phaolô Bột cảm
thấy lớn lên trong tâm hồn xuân trẻ và trong trắng của mình ước muốn học hỏi và
tiến xa trên đường thánh thiện. Cậu muốn trở thành môn đệ đích thật của Đức
Chúa GIÊSU KITÔ. Cậu bày tỏ cùng mẹ tất cả ước vọng. Bà Maria Mận cảm động khi
thấy con trai duy nhất có những ý tưởng cao đẹp. Bà biết THIÊN CHÚA Nhân Lành
đã gieo vào lòng con hạt giống ơn gọi. Bà không so đo tính toán. Bà không ngần
ngại chần chờ. Bà nhất định dâng cho Chúa kho tàng đáng giá nhất: Phaolô Bột,
quí tử của bà.
Dịp may đến.
Năm 1850, Linh Mục Khương, Cha Sở Sơn-Miêng đến xứ Kẻ-Lựa ban các Bí Tích cho
giáo dân trong xứ. Năm 1850 cũng là Năm Thánh do Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio
IX (1846-1878) công bố cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Giáo Đoàn Đàng Ngoài tại
Việt Nam hiệp ý với Đức Thánh Cha, cử hành Năm Thánh với lòng sốt sắng đặc biệt.
Cảm thấy ơn thánh Chúa tràn ngập tâm hồn, Phaolô Bột nài nỉ mẹ đưa đến gặp Cha
Khương, xin Cha nhận cậu vào Nhà Đức Chúa Trời với hy vọng ngày kia trở thành
Thầy Giảng và Linh Mục.
Dĩ nhiên bà
Maria Mận không từ chối lời con xin. Bà mau mắn đưa con đến gặp Cha Sở. Sau khi
lắng nghe lời tỏ bày của cả hai mẹ con, Cha Khương ngần ngại không chấp nhận lời
thỉnh cầu. Phaolô Bột đành theo mẹ trở về, chuyên cần giúp mẹ việc nhà và đem
nón mẹ chằm ra chợ bán.
Hai năm sau,
1852, Cha Khương có dịp trở lại Kẻ-Lựa. Phaolô Bột nài nỉ mẹ đưa đến gặp Cha, lập
lại lời xin. Lần này Cha Khương động lòng thương xót. Cha chấp nhận cậu vào Nhà
Đức Chúa Trời. Phaolô Bột được nhận với tư cách là chú giúp trường xứ Sơn-Miêng.
Phaolô Bột để tâm ngay vào việc học và bắt đầu thực thi các nhân đức. Trong số
các bạn đồng sinh, Phaolô Bột nổi bật về tính tình hiền dịu, khả ái và vui
tươi. Ngoài ra, thân hình cao ráo trắng trẻo cũng khiến Phaolô Bột dễ dàng thu
hút cảm tình của những người sống chung quanh. Tuy nhiên, Phaolô Bột không chú
ý đến các chi tiết này, cũng không tỏ ra tự mãn kiêu căng. Trái lại, cậu chỉ
chuyên chăm học hành và thực thi nhân đức.
Trong ba năm
học tập tại nhà xứ Sơn-Miêng, Phaolô Bột không bao giờ xin phép về Kẻ-Lựa thăm
mẹ. Phần bà Maria Mận, mỗi lần có dịp ra Sơn-Miêng, bà đều ghé thăm con trai.
Chi phí học tập thường rất cao, bà Maria Mận không thể một mình gánh hết. May mắn
thay, một phụ nữ đạo đức khá giả thuộc xứ Phúc-Lâm tên Marta Lịch nhận phần
giúp đỡ. Để tỏ lòng biết ơn mẹ nuôi, thỉnh thoảng chú Bột đến thăm bà Marta Lịch.
Tuy nhiên, mặc dù bà Marta Lịch nài nỉ, Phaolô Bột chỉ nhận những gì tối thiểu
cần thiết. Chú lễ phép thưa với mẹ nuôi:
- Xin mẹ cầu cho con được ơn trung tín đến
hơi thở cuối cùng trong Nhà Đức Chúa Trời.
Thời gian
Phaolô Bột học tập tại nhà xứ Sơn-Miêng cũng là thời kỳ Giáo Hội Công Giáo tại
Việt Nam bị bách hại dữ dội. Ngày 1-5-1851, Cha thánh Augustin Schoeffler Đông
(1822-1851), thuộc Hội Linh Mục Thừa Sai Paris, bị hành quyết vì Đạo tại
Sơn-Tây. Cùng ngày tháng đó một năm sau, 1852, Cha thánh Jean-Louis Bonnard
Hương (1824-1852) cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris, bị giết vì Đức Tin tại Nam-Định.
Tất cả những chứng nhân anh dũng ấy ghi khắc vào con tim thơ trẻ của các chú giúp
nhà xứ Sơn-Miêng lòng nhiệt thành khát khao ơn được dùng chính mạng sống tuyên
xưng Đức Tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ con người.
Ba năm học
hoàn tất, năm 1855 Phaolô Bột được Cha Sở Sơn-Miêng giao phó cho các Linh Mục
thuộc Chủng Viện Vĩnh-Trị. Từ nay Phaolô Bột chính thức trở thành chủng sinh.
II. CUỘC SỐNG NƠI CHỦNG VIỆN VĨNH-TRỊ
Năm 1848,
vua Tự Đức (1830-1883) lên ngôi, tiếp tục các cuộc bách hại chống lại Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là các Linh Mục người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris.
Năm 1855
Phaolô Bột gia nhập chủng viện Vĩnh-Trị.
Vĩnh-Trị nằm
trên bờ sông Nam-Định cách không xa Ninh-Bình bao nhiêu. Trong vòng 100 năm liền,
Vĩnh-Trị là cứ điểm truyền giáo của địa phận Đông Đàng Ngoài. Hồi ấy, toàn thể
dân cư Vĩnh-Trị đều là tín hữu Công Giáo. Nơi đây còn có chỗ cư trú của Đức Cha
Retord Liêu (1840-1858), Đại Diện Tông Tòa. Và bên cạnh ngôi nhà của Đức Cha
Liêu là chủng viện. Trong một xứ truyền giáo vào thời kỳ Giáo Hội bị bách hại,
chủng viện Vĩnh-Trị lúc ấy là một cơ sở thô sơ. Nhưng chương trình huấn luyện
không sơ sài. Các chủng sinh học La-ngữ, chữ Tàu, chữ Nho, tiếng Việt, sử học
và bình ca. Ngoài ra, kể từ khi Cha thánh Phêrô-Phanxicô Néron Bắc (1818-1860),
Linh Mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, được chỉ định làm Bề trên chủng viện Vĩnh-Trị,
các chủng sinh có thêm chương trình học về toán pháp như hình học, đại số, số học
và thiên văn, v.v ..
Chủng sinh
Phaolô Bột được diễm phúc thụ huấn với các tôn sư nổi bật về các khoa học đời
cũng như đạo. Nhưng nhất là, các vị nêu cao gương sáng cho các môn sinh và cho
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam lòng trung thành cho đến chết.
Đây là thời
kỳ Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793-1857) được chỉ định làm Giám đốc chủng viện
Vĩnh-Trị, kiêm giáo sư La-ngữ lớp chủng sinh lớn nhất sắp ra trường. Khi Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam được một thời gian tạm bằng an, Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh
lo tổ chức đời sống thiêng liêng cho các chủng sinh. Ngài dạy cho họ biết học hỏi
Lời Chúa trong Phúc-Âm, trong Thánh-Kinh, sùng kính Đức Mẹ MARIA bằng việc lần
hạt Mân Côi, ăn chay các ngày trước lễ Đức Mẹ, mang Áo Đức Mẹ trên mình, thương
mến các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục và cầu nguyện cho các Linh Hồn. Nhất là rút
kinh nghiệm bản thân trong thời kỳ chịu bách hại và lao tù, Cha thánh Tịnh nhấn
mạnh với chủng sinh lòng tôn thờ Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ngài dựng tượng
Thánh Giá ở giữa con đường chính xuyên qua chủng viện và 4 tượng Thánh Giá khác
ở 4 góc giáo xứ Vĩnh-Trị. Ngài làm phép long trọng các tượng Thánh Giá và mỗi
ngày thứ sáu, Cha thánh Tịnh thường đưa một số chủng sinh tới đó đọc kinh. Tượng
Thánh Giá thứ sáu được dựng trong Trại Phong Cùi gần Vĩnh-Trị. Hôm đó chính
ngài vác cây Thánh Giá trên vai, theo sau là toàn thể chủng viện. Tất cả mọi
người hát bài Vexilla Regis - Cờ Vua Chiến Thắng. Bên chân tượng Thánh Giá này,
Cha thánh Tịnh xây một nhà nguyện nhỏ và năm nào cũng thế, ngài đến đây bốn lần
để dâng Thánh Lễ.
Một thời
gian ngắn sau khi Phaolô Bột gia nhập chủng viện, ngày 18-9-1855, vua Tự Đức
ban hành sắc chỉ cấm đạo nghiêm ngặt. Tất cả các Linh Mục đều bị kết án tử
hình. Các quan viên Công Giáo có thời hạn 1 tháng để chối Đạo. Binh lính và tín
hữu thường được triển hạn 6 tháng. Dĩ nhiên các Thầy Giảng Nhà Đức Chúa Trời và
các chủng sinh cũng bị kết án nặng nề, sau các Linh Mục.
Cùng thời
gian này có Thầy giảng Augustino Điểm làm giáo sư chủng viện Vĩnh-Trị. Thầy có
người em trai Marcô Hào là chủng sinh. Cả hai anh em đều được diễm phúc đổ máu
làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Thầy Augustino Điểm chịu chết vì Đạo năm
1860 tại Nam Định. Năm kế tiếp, ngày 1-1-1861, chủng sinh Marcô Hào nối gót bào
huynh tuyên xưng Đức Tin cũng tại Nam Định, hưởng dương 19 tuổi.
Chi tiết
trên đây cho thấy chủng sinh Phaolô Bột trải qua thời kỳ thụ huấn và thực tập
nhân đức trong một bầu khí bất an, phập phồng lo sợ vì cơn bắt Đạo nỗi lên khắp
nơi, từ Nam chí Bắc. Mặc dầu thế, trong năm 1856, Đức Cha Retord Liêu vẫn quyết
định tổ chức tuần tĩnh tâm cho giáo hữu Vĩnh-Trị. Dĩ nhiên các chủng sinh chủng
viện Vĩnh-Trị là những thành phần đầu tiên tham dự tích cực vào tuần tĩnh tâm
này. Đức Cha Liêu được sự hỗ trợ đắc lực của hàng giáo sĩ trong giáo phận. Mỗi
ngày có 4 bài giảng, không kể những bài đọc Sách Thánh và bài suy niệm. Tín hữu
tham dự đông đảo nên phải lập đến 14 tòa giải tội. Tuần tĩnh tâm được kết thúc
với lễ truyền chức Linh Mục. Quả là biến cố linh thiêng và trọng đại trong thời
kỳ bách hại. Đây là biến cố phi thường đưa các tân Linh Mục cũng như tín hữu
vào đời sống hầm trú nơi các hang toại đạo. Chủng sinh Phaolô Bột cảm thấy lòng
dâng lên những tâm tình quảng đại cao đẹp. Cậu ước ao được bước theo các bậc thầy
và đàn anh trên con đường tông đồ và tử đạo.
Và chuyện phải
đến đã đến. Ngày 27-2-1857 quan phủ Nghĩa Hưng đem quân vây kín làng Vĩnh-Trị,
nơi có nhà Đức Cha và chủng viện. Đức Cha Retord Liêu và hai Linh Mục thừa sai
người Pháp là Cha Charbonnier và Cha thánh Jean-Théophane Vénard Ven
(1829-1861) kịp thời trốn thoát. Nhưng vị Giám đốc chủng viện, Cha thánh Phaolô
Lê Bảo Tịnh bị bắt cùng với hai ông Chánh-Phó Xã-ủy làng Vĩnh-Trị và chủng sinh
Lương. Cả bốn vị bị giải ra tỉnh Nam Định. Sau 38 ngày bị giam cầm, Cha Tịnh bị
kết án tử vì cương quyết không chối bỏ đạo thánh Chúa. Cha nói với quan tổng đốc
Nam Định Nguyễn Đình Hưng:
- Tôi xin
chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở
trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó
chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại vinh quang. Còn linh hồn tôi là của THIÊN
CHÚA, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin
tưởng của tôi. Đạo THIÊN CHÚA là chính Đạo, là Đạo thật, tôi yêu mến và giữ Đạo
ấy từ thưở bé, và dù có chết tôi cũng chẳng bỏ được.
Lời khẳng
khái phát sinh từ quyết định can đảm và sáng suốt. Ngày 6-4-1857 tại pháp trường
Bảy Mẫu, Nam Định, Cha Phaolô Lê Bảo Tịnh
nói lời từ biệt cuối cùng gởi tới mọi người:
- Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ Đạo và
can đản bền vững, đừng sợ chết!
Vài ngày sau
khi Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh bị giết, ba vị đồng tù với ngài bị phân tán mỗi
người một nơi. Ông Chánh Xã-ủy Vĩnh-Trị bị lưu đày ở Thái-Nguyên, ông Phó Xã-ủy
ở Lạng-Sơn và chủng sinh Lương ở Cao-Bằng. Cả ba vị đều trung thành với Đức Tin
Công Giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Riêng chủng sinh Lương, chú đã viết thư gởi
đến quí Bề Trên và các chủng sinh cùng trường. Thư kể lại cuộc sống lưu đày như
sau:
“Người dân
hai tỉnh Cao-Bằng và Lạng-Sơn không toàn tòng là người Việt nhưng có thêm các sắc
dân thiểu số và người Tàu. Ngôn ngữ bất đồng khiến cho việc giao thiệp trở nên
khó khăn. Tại Lạng-Sơn hiện có 6 tân tòng bị lưu đày. Họ có thể an ủi và khích
lệ lẫn nhau. Cha Sở tìm cách viếng thăm và ban các bí tích cho họ. Nhưng không
mấy dễ dàng. Thường ngài chỉ có thể gặp các tân tòng một hay hai lần trong năm.
Trong khi đó, tại Cao-Bằng này, con hoàn toàn cô thế cô thân. Con là người duy
nhất được biết Đạo thánh Chúa, Đạo chân thật. Vì thế, con không rõ đến khi nào
con mới được diễm phúc gặp một Linh Mục để xưng tội. Với sức khoẻ yếu kém cộng
thêm khí hậu độc địa, con có thể chết bất kỳ lúc nào, chết mà không nhận được sự
trợ giúp thiêng liêng nào. Do đó, con khẩn khoản xin mọi người thương cầu cho
phần rỗi linh hồn con, hầu con được can đảm thực thi thánh ý THIÊN CHÚA đến
cùng.
“Ngày con mới
đặt chân đến đây, quan Án tỉnh Cao-Bằng truyền con đạp chân lên Thánh Giá. Thấy
con cương quyết từ chối, quan nổi giận buông lời nguyền rủa. Con thưa với quan:
- Nếu trước
đây vua đòi đầu cháu, hẳn cháu đã sẵn sàng dâng đầu đến một trăm lần, chẳng thà
chối bỏ Đạo Chúa. Giờ đây, cháu đã chịu xét xử, bị tuyên án và cháu đã chấp nhận
bản án lưu đày, đến một miền khỉ ho cò gáy, sau khi băng rừng lội suối đi qua một
chặng đường dài gian lao khốn khó, làm sao quan có thể nghĩ là cháu sẽ chối bỏ
Đạo Chúa, để trong phút chốc, mất hết mọi công phúc mà cháu cố gắng thu đạt,
khi bằng lòng chịu đau khổ vì Đạo?..
“Một lần
khác, cũng vị quan Án ấy gọi con đến nhà quan. Sau một hồi khuyên con bỏ Đạo
không hiệu quả, quan nói với con: “Đạo Vua Trời Đất là Đạo gì và đâu là những
lý do khiến chú gắn bó đến độ không bỏ Đạo được?” Con liền trình bày cho quan
nghe một số giáo lý Đạo Công Giáo. Con cũng dùng nhiều lý lẽ minh chứng Đạo
Công Giáo là Đạo thật. Quan Án tỏ ra lắng nghe lời con nói. Sau khi thỏa mãn
tính tò mò, quan Án cho con về và nói: “Nếu quả thật như thế, chú hãy ra về bằng
an”. Kể từ ngày ấy, quan Án tỉnh Cao-Bằng để con yên, không hạch hỏi cũng không
truyền con phải bỏ Đạo nữa”.
Ký tên:
Lương, người bị lưu đày vì Đức Tin.
Lá thư của
chủng sinh Lương là một khích lệ lớn lao cho các bạn đồng trường tại Vĩnh-Trị.
Lá thư cũng mang lại nhiệt huyết trung thành cho những môn đệ Đức Chúa GIÊSU
KITÔ, đặc biệt trong thời kỳ cấm cách.
Trong lúc
đó, chủng viện Vĩnh-Trị phải đóng cửa. Các chủng sinh phải phân tán từng nhóm
ra các giáo xứ. Chú Phaolô Bột và một nhóm chủng sinh đồng lớp di tản về xứ Kẻ-Báng,
cũng thuộc tỉnh Nam Định.
III. BỊ BẮT VÀ CHỐI ĐẠO
Ngày
21-5-1857, nhằm lễ Đức Chúa GIÊSU Thăng Thiên, Đức Cha thánh Giuse Diaz
Sanjurjo An (1818-1857), Giám Mục thừa sai người Tây Ban Nha, Đại Diện Tông Tòa
Trung Đàng Ngoài, bị bắt tại Bùi Chu và bị giải về Nam Định. Hồi ấy, ông Nguyễn
Đình Hưng, Tổng Đốc Nam Định, vô cùng ghét Đạo Công Giáo. Ông cho dùng đủ mọi cực
hình để làm khổ các tù nhân Công Giáo, vô phúc rơi vào tay ông. Gông cùm ngăn cản
nghỉ ngơi ngày đêm, xiềng xích ăn mòn xương thịt, roi mây hằn lên những lằn đau,
nhức buốt tận tim gan, kềm nung để lại những vết thương khó lành, và quì gối
trên những tấm phản có đinh sắt nhọn, đau đớn vô cùng. Đó là những cực hình khủng
khiếp mà lòng độc ác con người có thể nghĩ ra.
Năm 1857 báo
hiệu nhiều tang thương thử thách cho Giáo Đoàn Đàng Ngoài. Tổng Đốc Nam Định biết
rõ Kẻ-Báng là nơi trú ẩn của nhiều vị Linh Mục thừa sai và chủng sinh. Đêm 22 rạng
ngày 23-1-1858, tổng đốc Nam Định sai quan tướng mang 700 binh lính về vây làng
Kẻ-Báng. Cuộc tấn công chuẩn bị chu đáo đến nỗi dân làng không mảy may hay biết
gì. Dầu vậy, một số Linh Mục và chủng sinh cũng may mắn thoát được, ngoại trừ
chủng sinh Phaolô Bột, 17 tuổi và ba bạn đồng lớp: Gioan Pháp, Phaolô Tuấn và
Hương. 4 chủng sinh bị bắt cùng với 17 bô lão, trong đó có ông Trùm xứ đạo Kẻ-Báng.
Ngày hôm sau, tất cả bị giải về Nam Định và bị tống ngục. Nhờ được giam chung,
các tù nhân vì Đức Tin đã an ủi khích lệ lẫn nhau hãy cương quyết trung thành với
Đạo Công Giáo cho đến chết.
Ngày
25-1-1858, Tổng Đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng truyền mang Phaolô Bột cùng ba bạn
chủng sinh và các vị bô lão Kẻ-Báng ra công đường. Ông truyền đặt Cây Thánh Giá
dưới đất. Tất cả các tín hữu Công Giáo đoán biết thử thách nào sẽ diễn ra. Vừa
xuất hiện, ông tổng đốc nói ngay:
- Hãy đạp
lên Thánh Giá rồi tôi sẽ trả tự do cho mọi người.
Lệnh truyền
ngầm hiểu rằng:
- Nếu bất
tuân, sẽ bị lưu đày hoặc kết án tử hình.
Ông trùm Kẻ-Báng,
trong tư cách là niên trưởng, trả lời thay cho tất cả:
- Thưa quan,
tôi được hân hạnh trình với quan rằng, chúng tôi là tín hữu Công Giáo nên chúng
tôi không đạp chân lên Thánh Giá.
Vừa nghe câu
trả lời khẳng khái dõng dạc của ông trùm, quan tổng đốc nỗi giận đùng đùng. Ông
truyền cho lính đánh đòn tức khắc các chiến sĩ Đức Tin.
Các người
lính liền bắt các tù nhân nằm sấp mặt xuống đất, trói hai tay hai chân các tù
nhân vào trụ và dùng roi mây thẳng tay đánh túi bụi vào thân mình các tù nhân.
Thật là cực hình khủng khiếp. Bởi lẽ quan tổng đốc truyền cứ mỗi tù nhân bị hai
người lính đánh đòn hai bên. Các roi đòn làm máu chảy thấm áo rồi nhuộm đỏ đất.
Nhưng quan tổng đốc vẫn chưa nguôi giận. Ông còn truyền phải nung các kềm sắt
và dí lên người các tù nhân.
Và quan tổng
đốc đã thành công. Các cực hình đau đớn đến nỗi các cụ già yếu sức phải đầu
hàng. Các bô lão Kẻ-Báng chấp nhận bước qua Thánh Giá để đánh đổi tự do, trở về
đoàn tụ với gia đình. Nhìn các bô lão lần lượt bước qua Thánh Giá, 4 chủng
sinh: Bột, Pháp, Hương và Tuấn cảm thấy lòng đau nhói. Các chú cay đắng tự nhủ:
- Làm sao các
vị bô lão lại có thể phản bội Đức Chúa GIÊSU KITÔ, công khai chối bỏ Kitô Giáo
là Đạo chân thật?
May mắn
thay, ông trùm Kẻ-Báng, sau khi bước qua Thánh Giá đã hối hận tức khắc. Ông đền
bù ngay tội lỗi tày trời vừa mới phạm và nhất là gương mù gương xấu ông gây ra
cho các chủng sinh non trẻ. Ông quay trở lại nói với quan tổng đốc:
- Đức Tin nằm
sâu trong lòng chúng tôi, và lòng chúng tôi không hề chối Đạo.
Vừa nghe,
ông tổng đốc lên cơn thịnh nộ. Ông quát lớn:
- Người này
chỉ chối Đạo bề ngoài, nhưng thật ra trong lòng vẫn trung tín với Đạo!
Ông kết án
lưu đày ông trùm Kẻ-Báng lên Lạng Sơn. Nơi đây ngày 20-10-1858, ông trùm trút
hơi thở cuối cùng, lòng vẫn một mực kiên trung với Đức Tin KITÔ. Ông được mọi
người kính trọng tưởng nhớ như một vị anh hùng tử đạo.
Thành công với
16 bô lão Kẻ-Báng, bây giờ quan tổng đốc Nam Định dồn mọi chiến thuật tàn nhẫn
tấn công 4 chủng sinh: Bột, Pháp, Hương và Tuấn. Quan biết rõ không dễ dầu gì
lay chuyển Đức Tin của các thiếu niên, với tư cách là chủng sinh Nhà Đức Chúa
Trời. Các lý hình cũng biết rõ như vậy. Và sự thật là như thế. Mặc bao lời đe dọa
cũng như ngon ngọt dỗ dành, cả 4 chủng sinh đều đứng vững, cương quyết không bước
chân qua Thánh Giá. Sau cùng, để đạt mục đích, các binh lính nghĩ ra diệu kế. Họ
dùng vũ lực khiêng các chủng sinh ngang qua Thánh Giá, như thế, họ có thể rêu
rao rằng, các thiếu niên Nhà Đức Chúa Trời đã nhát đảm công khai chối bỏ Đạo
thánh!
Họ bắt đầu
thi hành thủ đoạn với Gioan Pháp, chủng sinh nhỏ tuổi nhất. Năm ấy Gioan Pháp
14 tuổi và là bào đệ của Cha Triêm, giáo sư chủng viện Vĩnh-Trị. Mặc dầu đã kiệt
lực và đau đớn vì trận đòn chí tử vừa chịu, chú Gioan Pháp vẫn giữ nguyên chí
khí anh hùng ban đầu. Chú cương quyết và sáng suốt kháng cự. Khi bị quân lính
lôi qua Thánh Giá, Gioan Pháp dùng trọn sức còn lại, uống cong mình và giữ cho
đôi chân không hề chạm đến Thánh Giá. Tức giận và xấu hổ trước sức kháng cự vừa
anh dũng vừa khéo léo của một thiếu niên, quan tổng đốc ra lệnh cho lý hình hãy
dùng kềm nung nóng, kẹp vào người Gioan Pháp. Chú chủng sinh đau đớn ngất lịm
đi. Nhưng khi vừa tỉnh lại, chú không ngừng lập đi lập lại:
- Thưa quan,
điều quan vừa làm, quan chịu trách nhiệm. Phần con, con nhất định không chấp nhận
đạp chân lên Thánh Giá.
Nếu chủng
sinh Gioan Pháp cương quyết không tuân lệnh quan tổng đốc, đối lại, quan tổng đốc
cũng đâu dễ dàng buông tha một thiếu niên 14 tuổi, dám cả gan bất tuân lệnh
quan! Ông truyền lý hình đưa Pháp đến quì trên tấn ván có đầy đầu đinh nhọn. Thật
là hình phạt khủng khiếp! Dầu vậy, Gioan Pháp vẫn trước sau như một. Cứ sau một
hình khổ mới, chú Pháp lại cương quyết khẳng định:
- Con sẽ
không bao giờ đạp chân lên Thánh Giá!
Thất bại trước
sức kháng cự anh hùng của một học sinh Nhà Đức Chúa Trời, quan tổng đốc Nam Định
tuyên bố kết án lưu đày chủng sinh Gioan Pháp lên Lạng Sơn, cùng với ông trùm Kẻ-Báng.
Tại Lạng Sơn, Chúa Nhân Lành đã để cho Gioan Pháp được niềm an ủi lớn lao: đó
là được trút hơi thở cuối cùng trong tay bào huynh: Linh Mục Triêm.
Gương anh
dũng trung thành với Đạo Công Giáo của chủng sinh Gioan Pháp hẳn có sức mạnh vô
biên củng cố Đức Tin của các bạn đi sau: Phaolô Bột, Phaolô Tuấn và Hương. Tất
cả đã cùng trải qua các hình khổ dữ dằn như: bị cột tay chân vào trụ, bị đánh
đòn bằng roi mây, bị kềm nung đỏ kẹp vào da thịt, v.v.. Tổng đốc Nam Định hẳn cũng chờ đợi sức
kháng cự tương tự nơi ba thiếu niên kia. Tuy nhiên, ông khéo léo bố trí để đưa
các chủng sinh vào tròng. Ông truyền binh lính khiêng cả ba chú Bột, Tuấn và
Hương qua Thánh Giá. Và hỡi ôi, lần này ông tổng đốc đã thành công! Cả ba chủng
sinh một phần bị lừa dối, một phần quá yếu nhược và một phần có lẽ bị kinh hãi
khi chứng kiến hình khổ dữ dằn của Gioan Pháp, nên cả ba đã để yên cho lý hình
khiêng qua Thánh Giá mà không hề kháng cự!
Cử chỉ đó ngầm
minh chứng rằng: cả ba chủng sinh đã đồng ý công khai chối bỏ Đạo thánh Đức
Chúa GIÊSU KITÔ! Và ông tổng đốc Nam Định chỉ chờ đợi có thế! Ông hoan hỉ truyền
ghi tên tức khắc ba thiếu niên vào danh sách các tín hữu Công Giáo đã đạp chân
lên Thánh Giá, nghĩa là đã chối bỏ Đạo. Rồi ông trả tự do ngay cho ba chủng
sinh. Hương lên đường về quê quán. Còn Phaolô Bột và Phaolô Tuấn lủi thủi trở lại
Kẻ-Báng, nơi có Thầy giảng Augustino Điểm cùng với một số chủng sinh Vĩnh Trị
đang trú ẩn ..
IV. THỐNG HỐI VÀ CƯƠNG QUYẾT DÙNG CHÍNH
MẠNG SỐNG GỘT RỬA TỘI PHẢN ĐẠO
Ai có thể
nói cho hết, diễn tả cho cùng nỗi lòng của hai thiếu niên, từ đây mang danh bội
giáo, phản Đạo và chối Chúa??? Chính lúc này, Phaolô Bột hiểu thấm thía ý nghĩa
cay đắng thế nào là bội giáo. Chú đau đớn nhủ thầm:
- Con đã bất
trung cùng Thầy Chí Thánh con, Thầy Nhân Lành con! Sao con lại hèn nhát đến độ
không dám kháng cự khi quân lính khiêng con qua Thánh Giá? Sao con không có được
chí khí anh hùng của Gioan Pháp, một mực bày tỏ lòng trung tín với Đạo thánh?
Vì hết lòng
ăn năn thống hối như thế, nên Phaolô Bột không ngừng nói với Phaolô Tuấn:
- Bạn à,
chúng ta đã yếu đuối phạm tội chối Chúa, chúng ta phải tìm ngay một Linh Mục để
xưng thú tội lỗi.
Ý tưởng đầu
tiên của hai chủng sinh thất trận là tìm về với Thầy giảng Augustino Điểm, giáo
sư chủng viện Vĩnh-Trị đang coi sóc một nhóm chủng sinh trú ẩn tại Kẻ-Báng. Với
thân mình bầm dập rách nát và áo quần tả tơi vì roi đòn, hai chủng sinh trông
thật đáng thương. Hai chú hy vọng sẽ được mọi người thông cảm, đặc biệt là Cha
Sở và Thầy giảng Điểm, giang rộng cánh tay như người Cha nhân từ, tiếp đón hai
đứa con hoang trở về. Hai chú sẽ sụp lạy và thưa với Cha và với Thầy giảng rằng:
- Ôi lạy
Cha, lạy thầy, chúng con đã phạm tội với Trời và với hai ngài. Chúng con không
xứng đáng được nhận vào sổ những thiếu niên con Nhà Đức Chúa Trời. Nhưng ít ra
xin nhận chúng con vào số những người làm công trong nhà và cho phép chúng con
được giúp việc cùng ăn chay hãm mình để đền bù tội lỗi chúng con đã phạm!
Khi Phaolô Bột
và Phaolô Tuấn về đến Kẻ-Báng thì mọi người đã rõ đầu đuôi ngọn nguồn, không cần
đợi hai chú kể lể dài dòng. Hẳn Cha Sở và thầy giảng thông cảm thảm trạng của
hai thiếu niên, trong giây phút yếu đuối, đã trở thành kẻ bội giáo! Nhưng trong
hoàn cảnh khó khăn hiện tại, cần có những chứng nhân anh dũng, nêu cao gương
sáng cho mọi tín hữu, đặc biệt các chủng sinh. Bởi vì, vào bất cứ lúc nào, quan
quân cũng có thể bất ngờ xuất hiện để truy bắt các tín hữu Công Giáo. Vì lý do
đó, Cha Sở Kẻ-Báng đành từ chối, không tái chấp nhận hai chú Phaolô Bột và Phaolô
Tuấn vào số các chủng sinh Vĩnh-Trị. Cửa chủng viện khép kín trước hai kẻ bội
giáo!
Phaolô Bột
vô cùng đau đớn trước quyết định này. Tia hy vọng cuối cùng vừa bị dập tắt.
Cùng với lời từ chối của Bề Trên, Phaolô Bột như nghe rõ tiếng kết án của chính
lương tâm:
- Ngươi đã
phản bội Thầy Chí Thánh. Ngươi là một tên bội giáo!
Mặc dầu thất
bại ê chề, Phaolô Bột không tuyệt vọng. Chú quay trở lại nơi đã chứng kiến ơn gọi
nẩy sinh thưở ban đầu. Đó là nhà xứ Sơn-Miêng, có Cha Sở Khương. Chính Cha đã tập
luyện và giới thiệu chú vào chủng viện Vĩnh-Trị. Hẳn Cha còn nhớ hình ảnh bà
Maria Mận, người mẹ hiền đức, và nhớ rõ những tháng ngày ngây thơ trong trắng của
mình, Cha sẽ cảm thông và tha thứ cho tội phản giáo của mình. Nhưng chú đã lầm
to. Vì sợ gây ảnh hưởng xấu nơi các thiếu niên khác, Cha Khương nghiêm khắc khiển
trách:
- Con sống
bao lâu tùy ý, nhưng đối với Cha, xem như thể con đã chết!
Nói xong,
Cha cho chú Bột ít tiền đi đường và cấm Phaolô Bột không được lưu lại nhà xứ.
Bị xua đuổi
tại hai nơi dấu yêu nhất của cuộc đời chủng sinh, khơi lên niềm đau khôn tả
trong tâm hồn chú Phaolô Bột. Chú cay đắng dằn vặt với ý tưởng:
- Tại sao
mình lại phản bội THIÊN CHÚA, Đấng đầy tình thương và an bình? Tại sao mình lại
yếu đuối, lại dại dột phản bội Ngài?
Chính từ niềm
đau khôn lường này, bắt đầu nẩy sinh nơi Phaolô Bột ước muốn đền bù tội lỗi,
xóa bỏ gương xấu bội giáo, phản THIÊN CHÚA của mình.
Phaolô Bột
nói với Gioan Pháp:
- Chúng ta
hãy dốc lòng trở lại Nam-Định tái tuyên xưng Đức Tin!
Rồi thấy bạn
do dự, Phaolô Bột khẳng khái nói:
- Chết hay sống,
tôi đều trở lại Nam Định để rút lại hành vi phản giáo của tôi trước mặt các
quan.
Khi nghe bạn
nói thế, Gioan Pháp quá kinh hãi nên tự ý tách rời bạn, trở về quê Yên-Khoái.
Còn lại một
mình, Phaolô Bột không dám trở về ngay với mẹ. Chú biết rõ người mẹ hiền đức sẽ
phản ứng ra sao, trước tội chối Đạo tày trời của con trai. Thêm vào đó, chú còn
nhen nhúm chút hy vọng tìm được một vị Linh Mục biết thương cảm, nhận chú vào lại
Nhà Đức Chúa Trời. Do đó, Phaolô Bột lần lượt đến gõ cửa nhiều chủng viện và
nhà xứ khác nhau, nhưng ở đâu chú cũng bị xua đuổi cách phũ phàng. Chỉ lúc này
đây, chú mới nghĩ đến mái ấm gia đình, nơi có người mẹ góa thân yêu sống. Chú
hy vọng tấm lòng mẫu tử bao la của mẹ sẽ rộng tay đón tiếp đứa con hoang trở về.
Dĩ nhiên tin
dữ Phaolô Bột chối Đạo đã đến tai bà Maria Mận. Vì thế, vừa khi Phaolô Bột bước
vào nhà, bà Maria không dằn được nỗi đau đớn, bà lớn tiếng trách móc:
- Không bao
giờ tao tiếp nhận một kẻ phản Đạo, dù kẻ đó là con tao .. Con ơi, nếu con chết,
mẹ được diễm phúc khóc con như khóc một vị Tử Đạo. Nhưng hỡi ôi, ngày hôm nay mẹ
khóc, không phải vì sung sướng, nhưng là vì xấu hổ đau đớn vì đã trót sinh ra một
kẻ phản Đạo .. Chẳng thà bỏ thân vì Đức Tin tại Nam-Định còn hơn vác xác về đây
sau khi đã phản bội THIÊN CHÚA, gây ô nhục cho Đạo của mẹ và của dòng họ nhà
ta!
Chúa Nhân
Lành đã để cho người mẹ hiền đức có những lời cứng rắn ấy, hầu các bậc sinh
thành cũng như các nhà giáo dục, đều có cùng một ngôn ngữ như nhau. Điều này nhắc
nhở mỗi tín hữu phải trở về với nghĩa vụ tuyên xưng Đức Tin, cho dẫu phải hy
sinh cả tính mạng.
Phản ứng đầu
tiên của một người mẹ Công Giáo gương mẫu là như thế, nhưng sau đó, bà Maria Mận
đã sẵn sàng tiếp rước con, cho con ở chung cùng nhà và giúp đỡ bà trong những
công việc thường ngày. Rồi chỉ một thời gian ngắn, bà hiểu rõ nỗi lòng đau đớn
của con, cương quyết đền bù tội lỗi đã phản nghịch cùng THIÊN CHÚA.
Vài ngày sau
khi trở lại quê Kẻ-Lựa, Phaolô Bột đến Phúc-Lâm thăm mẹ nuôi là bà Martha Lịch.
Bà Lịch chưa nghe tin buồn về việc chú đã bội giáo. Vì thế Phaolô Bột tỏ ra vô
cùng lúng túng khi tỏ lộ cho mẹ nuôi biết sự thật. Sau này chính bà Martha Lịch
kể lại cuộc gặp gỡ như sau.
Hôm ấy là một
ngày mùa đông. Trời lạnh như cắt. Ngồi trong bếp nhìn ra tôi trông thấy một người
ăn mặc tơi tả, tay chống gậy, lưng khòm, đang đi thẳng vào cửa chính. Tôi đoán
là một người hành khất đến xin của bố thí. Khi tới gần, tôi mới vỡ lẽ: người
hành khất không ai khác là Phaolô Bột, con nuôi của tôi. Tôi vội vàng mời con
vào nhà và trải chiếu đẹp mời con ngồi. Nhưng Phaolô Bột không ngớt từ chối, vừa
khóc vừa nói:
- Con phạm một
tội tày trời khiến con vô cùng xấu hổ. Con là kẻ khốn cùng nhất trong các tội
nhân. Con không xứng đáng ngồi trên chiếu đẹp.
Tôi vội bảo
người giúp việc dọn cơm cho chú dùng. Nhưng Phaolô Bột lại xua tay từ chối:
- Không!
Không! Xin mẹ chỉ cho con chút cơm thừa ăn với muối hột. Bởi vì con là kẻ tội lỗi
nhất trong số những người tội lỗi!
Nói xong,
Phaolô Bột lại khóc như mưa.
Tôi vẫn ngỡ
ngàng, không hiểu lý do nào đưa con nuôi tôi đến tình trạng thảm thương như thế
này? Tôi phải nài nỉ lắm, Phaolô Bột mới kể đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe, từ
lúc bị bắt tại Kẻ-Báng, bị đưa ra Nam-Định và bị hành hung như thế nào. Phaolô
Bột cho tôi xem những vết thương nưng mủ, những lằn roi bầm đen, những dấu thịt
rửa vì bị kềm sắt nung đỏ kẹp vào. Sau cùng, Phaolô Bột kể cho tôi nghe chú bước
qua Thánh Giá như thế nào. Nghe đến đây, tôi hỏi con có kêu xin Chúa trợ giúp
trong lúc bị hành hung không, Phaolô Bột trả lời:
- Thưa mẹ
có. Con dùng hết sức lực nghiến chặt răng và tự đáy lòng, con kêu danh Thầy Chí
Thánh.
Tôi lại hỏi:
- Thế thì tại sao con lại không kiên vững đến cùng?
Phaolô Bột
giải thích:
- Con đâu có muốn chối Chúa! Chính những người lính lôi con qua Thánh Giá!
Phaolô Bột ở
lại với tôi một đêm hai ngày, nhưng dành trọn ngày thứ hai cầu nguyện nơi nhà
thờ xứ đạo .. Không những chỉ khóc lóc ăn năn, Phaolô Bột còn hãm mình phạt
xác, cam chịu mọi sỉ nhục để đền bù tội lỗi.
Rồi một
ngày, Cha Triêm, lúc bấy giờ đang ẩn trốn, được thông báo có một người trẻ tuổi
tìm gặp Cha. Vừa trông thấy Cha, người thiếu niên òa lên khóc nức nở:
- Con muốn
xin gặp Đức Giám Mục, bởi vì con đã hèn nhát đạp qua Thánh Giá, chối bỏ Đạo
thánh!
Cha Triêm
đau thắt lòng. Qua những lời nói đứt quãng, chen lẫn tiếng khóc ức nghẹn, Cha
đoán được rằng, đây là Phaolô Bột, bạn của Gioan Pháp, bào đệ của Cha. Cả hai
đã ra đấu trường, nhưng Pháp đã chiến thắng còn Bột thì bại trận. Cha Triêm
nói:
- Con thật tội
nghiệp, từ đó đến nay con đã làm gì?
Phaolô Bột lần
lượt kể lại cho Cha Triêm nghe. Kể xong, chú nài nỉ xin Cha dẫn đến gặp Đức Cha
để xin ơn tha thứ và để chuộc lại lỗi lầm. Nhưng Cha Triêm giải thích rằng,
trong thời buổi khó khăn, chỉ cần xưng tội với bất cứ Linh Mục nào cũng được.
Vài tuần sau,
Cha Triêm nhận được thư Phaolô Bột bày tỏ ước muốn, nếu được phép, chú sẽ trở lại
Nam Định, gặp quan lớn để tuyên xưng Đức Tin. Cha Triêm trả lời tức khắc và nói
rằng, nếu chú muốn, thì đây là một hành động can đảm, đáng khuyến khích, vì chắc
chắn nó làm đẹp lòng Chúa và vinh danh Giáo Hội. Nhận được thư, Phaolô Bột liền
giã biệt mẹ hiền:
- Thưa mẹ,
con đã hèn nhát chối bỏ Đạo Chúa và hành động phản Đạo này đã làm mẹ rất đau
lòng. Con xin mẹ tha lỗi cho con, như con đã xin Chúa tha tội. Con đã đền tội,
nhưng hôm nay con muốn chuộc lại lỗi lầm, bằng cách trở lại tỉnh, đến trước
quan lớn để rút lại hành động mà quan lớn đã đánh lừa con làm. Con chào mẹ và
xin mẹ cho phép con đi.
Thưa xong,
Phaolô Bột cúi mình sát đất, xá mẹ bốn lần. Người mẹ anh dũng cất tiếng nói:
- Con ạ, con
hãy ra đi bằng an và làm những gì con vừa nói. Đã từ lâu, mẹ dâng con cho Chúa
để con trở thành Linh Mục của Ngài. Con đã thuộc về Chúa. Nguyện xin THIÊN CHÚA
che chở con luôn mãi.
Ngày hôm sau
tại Nam Định, tổng đốc Nguyễn Đình Hưng vừa ra ngồi tòa xử, người ta bỗng trông
thấy một thiếu niên vội vã đến trước mặt quan lớn và nói:
- Thưa quan,
con là chủng sinh Bột. Cách đây mấy tháng, con đã phản Đạo vì quan đã lừa dối
con, bằng cách cho lính khiêng con qua hình Thánh Giá, nhưng con không chấp nhận
hành động này nữa nên con không muốn giữ nó. Hôm nay con đến đây để công khai
phủ nhận nó trước mặt quan lớn và tuyên xưng Đức Tin của con ..
Bị quấy rối
bất ngờ, quan nỗi giận truyền đuổi chú Bột ra khỏi tòa, nhưng chú khăng khăng
trở lại trước mặt quan lớn và lập lại những lời vừa nói. Nổi giận, quan truyền
đánh đòn chú Bột. Trong cơn đau đớn, chú luôn miệng la lớn:
- Hành động
phản Đạo không phải của con, nó là của quan lớn nên hôm nay con đem trả lại
quan lớn.
Cuối cùng, tức
giận vì không thể nào làm cho chú Bột im tiếng, quan truyền ném Phaolô Bột cho
voi chà.. Khi vị tử đạo trẻ tuổi bị cột cứng hai tay hai chân và bị đặt nằm dài
dưới đất trong chuồng voi, các con voi khổng lồ tiến lại từ từ. Thông thường,
chúng rất hung hăng dữ tợn, nhưng trước mặt Phaolô Bột, đàn voi xem chừng như
kính trọng chú, không dám tiến lại gần. Chúng đứng im nhìn chú. Trong khi đó,
Phaolô Bột luôn thầm thĩ nguyện xin THIÊN CHÚA trợ giúp, hoặc lập lại câu nói:
- Hành động
phản Đạo không phải của con, nó là của quan lớn nên hôm nay con đem trả lại
quan lớn.
Sau cùng,
không thể nhẫn nhục chờ đợi thêm được nữa, người ta đã xông vào thúc mạnh đàn
voi. Một con trong đàn, tiến lại gần, giơ cái cẳng khổng lồ đạp mạnh trên ngực
Phaolô Bột. Một lời kinh, một tiếng kêu sau cùng.
Xương gãy,
máu trào ra. Phaolô Bột trút hơi thở cuối cùng. Hôm ấy là ngày 14-9-1858, lễ
Tôn Vinh Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Giáo Hội
Công Giáo tại Việt Nam hãnh diện ghi thêm vào danh sách tử đạo - PHAOLÔ BỘT -
Chủng Sinh thống hối và chuộc tội bằng cái chết anh hùng, để nêu gương cho hậu
thế.
(”L'héroisme
dans le Repentir. PAUL BỘT: Jeune Martyr Tonkinois”, par l'Abbé Gustave
Monteuuis, Librairie Saint-Paul, Paris, 1905)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 22/11/2010