Bỏ
đi hoặc ở lại – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.-
Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc
giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ
về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc
“khủng hoảng” báo trước cuộc Thương Khó
của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng
lại các lời của Đức Giêsu; họ bị
đặt trước một chọn lựa là tin
hoặc không tin vào Người.
Thứ
lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về
Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của
Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề
này, các môn đệ lấy lập trường. Tại
đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban
đặc biệt của Người và các ân ban này chính là
thịt máu của Người. Các môn đệ của
Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi
vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu
nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng
chỉ Người mới có “những lời đem
lại sự sống đời đời”.
2.-
Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể
chia thành ba phần:
1)
Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng
sống (6,54a);
2)
Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3)
Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài
điểm chú giải
- Nghe rồi, […]: "Ai mà nghe nổi? (60): Động từ “nghe” (akouein)
được dùng hai lần với nghĩa khác nhau:
lần đầu, từ này có nghĩa là “nghe” mà không có
sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có
nghĩa là “nghe” với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của
Người (60): Bản
văn không nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả
Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy
lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai,
rất có thể Nhóm Mười Hai không được
kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì này (có
lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi
ông là “quỷ”, x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các
sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy
đã nói với anh em”. Chủ từ egô được viết ra trong bản văn
để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một “phép thế
đôi”[1], nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy
nói với anh em là Thần Khí ban sự sống”.
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM
IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai
(ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ
được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai
lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở
cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành
một đơn vị văn chương. Tác giả ghi
nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được
Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào
dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín
của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai
ở vào thế tương phản với những môn
đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ
đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với
Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn
chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa
Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai? Thầy mới có những lời đem lại
sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất
trong TM mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười
Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ
được nhắc tới trong TM IV, ở Ga 20,24). Hai
lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở
cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành
một đơn vị văn chương.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng
về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là
khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra
về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn
thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời” (c. 54a). Các động từ được
chọn để diễn tả tính hiện thực
của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt
mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi
(60-66)
Phần lớn các môn đệ không
thể chấp nhận được các lời
Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có
thể lắng nghe được nữa. Và thật
sự các lời của Đức Giêsu không thể
chịu nổi, nếu Người chỉ là một
người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả
không thể chấp nhận được, nếu
người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và
hời hợt, nếu người ta chỉ để ý
đến các chi tiết chứ không thấy bối
cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho
các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có
thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do
đích thực của phản ứng khó chịu của
họ: họ thiếu đức tin. Trước hết,
Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người
không nói như một người thường, nhưng
như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến
và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về
Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần
nêu bật điều này là Người được
Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất
từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên
quyết để hiểu được các lời
của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận
bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào
một điểm đặc biệt trong Bài Diễn
từ. Các môn đệ dường như cảm thấy
bị vấp phạm nhất về sự kiện
Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức
uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ
rằng nếu đi từ “thịt” hiểu là con
người phàm trần – kể cả nhân tính của
Đức Giêsu – người ta chẳng có gì để mong
đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về
cái chết; đi từ “thịt”, ta không thể chờ
đợi sự sống bất hoại. Sự sống
này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền
lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống
của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng
nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người
là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ
trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự
sống, về quyền lực không bao giờ cạn
kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự
sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống
hiện diện trong chính các lời nói của Người
và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về
điểm này. Kể cả các lời Người nói
về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự
sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về
Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở
thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu
Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý
đến chuyện Người là ai và bản chất các
lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta
lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự
từ khước, sự ngờ vực đối
với Người và đối với lời Người.
Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44);
nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm
của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu.
Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không
còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của
Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi
đầu bằng lời phản đối của
họ và bằng cách họ đánh giá các lời của
Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu
ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông,
Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với
Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay
động, bị thách thức bởi những lời
đòi hỏi của Người. Mẩu đối
thoại của Người với Nhóm Mười Hai
bắt đầu bằng một câu hỏi Người
đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn
bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có
đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu
muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại
câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở
lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để
cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng
Người không rút lại bất cứ điều gì
Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”)
nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do
khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ
không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy
thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có
những lời đem lại sự sống đời
đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận
biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do
thứ nhất là một suy tư sáng suốt: ‘Chúng con không thể bỏ đi
kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải
biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được
điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn
nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ
đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những
quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì
không tìm được một vị thầy nào dứt
khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với
Đức Giêsu.
Lý do
thứ hai nhắc đến đặc tính của các
lời Đức Giêsu.
Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em
là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô
chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những
lời đem lại sự sống đời đời”
(c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất
của Đức Giêsu là sự sống đời
đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói
về điều đó trong tư cách đáng tin nhất;
Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó,
Người còn mang sứ điệp chắc chắn
về sự sống đời đời và mở
đường vào sự sống đó.
Lý do
thứ ba liên hệ đến việc nhận biết
bản thân Đức Giêsu.
Phêrô nói về con đường giúp nhận biết
như thế và nói về nội dung của nhận
thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm
hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái
độ này, các ông đã hiểu và nhận biết
rằng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”
(c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa.
Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa,
điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc
về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên
Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một
tương quan đặc biệt với Thiên Chúa,
Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người
có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do
đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông,
Phêrô đề cập đến ba chủ đề
lớn của TM IV: (1) “sự sống đời
đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98
lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3)
“[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần). Lời
tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là
lời tuyên xưng tình yêu đối với Người.
+ Kết
luận
Các lập trường đã rõ, các phe
đã được xác định. Giuđa và những
người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét
xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con
Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa
loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều
và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy
tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của
Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn
cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông
phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong
hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với
Đức Giêsu.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69,
người tín hữu hôm nay không được phép
bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã
bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn
còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng
chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm
Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan
niệm của tôi về Đức Giêsu lâu nay như
thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ
mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại
với Người? Những câu hỏi này bắt tôi
phải ra khỏi tình trạng nửa vời để
dứt khoát chọn Đức Giêsu.
2. Người ta không thể nhận
biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở
gần; và người ta cũng không thể nhận
biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh
đạm, sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng
chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô
không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen
thuộc của Đức Giêsu; ông không nhấn mạnh
trên tầm quan trọng của Người đối
với loài người, nhưng ông xác định
được về Người nhờ dựa trên
tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Chúng ta không được lãnh
nhận Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể rồi
lại đi tìm các thú vui riêng cho mình; nếu chúng ta chỉ
nghĩ đến mình, chúng ta không thật sự tin vào
Đức Kitô. Đức Giêsu biết khó khăn này, nên
Người mời chúng ta đi vào thế giới của
Thánh Thần. Nếu chúng ta đặt sự chọn
lựa của chúng ta trên nền tảng là lô-gích
người phàm, chúng ta sẽ thất vọng. Chỉ khi
nào chúng ta có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa
Cha, khi nào chúng ta để cho Thần Khí thúc đẩy,
chúng ta mới có thể hiểu và chọn Đức Kitô.
4. Có thể nói hoạt cảnh ngắn
trong đó Phêrô xuất hiện ra như là người phát
ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác
giả suy tư về Nhóm Mười Hai. Tác giả ghi
nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức
Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong
những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ
với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế
tương phản với những môn đệ đã sa
sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ
đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức
Giêsu. Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm
Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các
ông: cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là
biến cố tối hậu bắt các ông phải minh
định lập trường của mình.
|