Tôi là Bánh Ban
Sự Sống
(Chú
giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Cũng
như trong việc chữa lành người bất toại
ở Ga 5, sang Ga 6, Đức Giêsu lấy sáng kiến nuôi
đám đông (6,4-13). Và đám đông nhìn
nhận việc nhân bánh ra lạ lùng là dấu chứng
tỏ Đức Giêsu là vị ngôn sứ và vua của
thời cánh chung mà dân con Israel hằng mong đợi (6,14-15). Kế đó, việc Đức Giêsu
trên mặt biển sôi sục (6,16-19) và lời “Thầy
đây (egô eimi, “Tôi là”)” để trấn an nhưng mang tính
mạc khải cho các môn đệ đang sợ hãi (6,20; x.
Xh 3,14) cho thấy thần tính của Người. Bài
diễn từ kế đó cũng tập trung vào bản
thân Đức Kitô (6,22-59). Trước
tiên Đức Giêsu tỏ ra chính Người là “bánh ban
sự sống” (6,35.48), là mạc khải của Thiên Chúa
nhằm ban sự sống cho loài người, là bánh ban
sự sống do Thiên Chúa Cha ban từ trời cho họ
(6,32-33). Để được thứ bánh ban sự
sống vĩnh cửu này, người ta phải tin vào
Đức Giêsu, là Đấng Chúa Cha sai phái (6,29.35.40.47),
và ăn thịt cùng uống máu Người (6,53.54.57.58).
Chính
Bài diễn từ về Bánh ban sự sống có thể phân
chia như sau:
1)
Chuyển tiếp vào Bài Diễn từ (6,22-24);
2) Mở
đầu Bài Diễn từ (6,25-34);
3) Chính Bài
Diễn từ (6,35-50.51-59);
4) Phản
ứng lại với Bài Diễn từ (6,60-71).
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể được chia thành bốn phần:
1)
Người Do Thái xầm xì (6,41-42);
2)
Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (6,43-47);
3)
Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người
là bánh trường sinh (6,48-50);
4) Bánh
trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (6,51).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Tôi là (42):
Kiểu nói “Tôi là” trong TM IV được liên kết
với tên của Thiên Chúa (x. Xh 3,14). Trong tư tưởng Sê-mít, tên của một
người cho thấy tính cách của người ấy.
Như thế, khi đồng hóa chính mình
với tên Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải bản
tính của Thiên Chúa và làm cho người ta biết Thiên Chúa.
Những lời nói của Đức Giêsu thông ban ơn
cứu độ của Thiên Chúa, là nguồn mạch
tối hậu ban sự sống và ánh sáng cho Dân
Người. Công thức “Tôi là” được sử
dụng cách tuyệt đối trong 6,20; 8,24.28.58; 13,19;
18,5.6.8; đó là cách Đức Giêsu mạc khải về
bản thân và uy quyền của Người. Một
cách thường xuyên hơn, công thức này được
sử dụng phối hợp với một ẩn dụ.
Có 7 lần công thức “Tôi là” được dùng theo
kiểu ẩn dụ để nói rõ rằng Đức
Giêsu là một món quà Thiên Chúa ban cho loài người
để có sự sống đích thực và ánh sáng,
hoặc là ơn cứu độ được Thiên Chúa
ban cho nhân loại (6,35; 8,12; 10,7.9; 10,11; 11,25; 14,6; 15,1).
-
Ông này (42):
“Cái ông này”, tính từ houtos diễn tả sự khinh
thường (6,52; 7,15; 3,16).
-
lôi kéo
(44): Động từ helkyein
với nghĩa “kéo ra ngoài, rút ra, mang ra ngoài bằng sức
mạnh”, thường được dùng để
chỉ việc di chuyển một khối nặng, như
một chiếc thuyền, một cái xe.
-
sách các ngôn sứ (45): Số phức này có
lẽ là một cách tổng-quát-hóa, vì ở đây chỉ
có một câu trích Is 54,13.
-
thịt (51): Sarx đúng là từ ngữ dịch
từ bơsar (A-ram; bâsâr,
Híp-ri). Nhưng từ ngữ này không chỉ có nghĩa là
“thịt” (cơ bắp…), mà cũng có thể có nghĩa là
toàn thân thể và thậm chí tất cả con người,
với đặc điểm là có tương quan với những
người chung quanh (x. 1,14). Hy-ngữ có
khả năng diễn tả tốt hơn các sắc thái
này. Trong Do Thái giáo sau này, người ta chọn
dịch từ Híp-ri bâsâr-thân thể bằng từ sôma, cho
dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai
từ sarx và sôma như nhau. Nhưng đối với bí
tích Thánh Thể, từ sôma đã trở thành từ cổ
điển, ngoại trừ trong một vài tác phẩm sau
thời các Tông Đồ, do ảnh hưởng Ga 6, các tác
giả đã dùng từ sarx (chẳng hạn thánh Inhaxiô và
thánh Giustinô). Phần tác giả TM IV, tại sao ông vẫn
giữ lại danh từ “thịt” mặc dù đã có
một từ ngữ riêng cho Bí tích Thánh Thể? Đó là vì “thịt” có nghĩa rộng hơn là
sôma-thân thể; vả lại trong TM IV, sôma là cái thi hài, là
thân thể chết. Làm thế nào một
thi hài có thể đưa lại sự sống?
Ngược lại “thịt” vừa chỉ toàn thể con
người vừa chỉ thân xác, nên một danh từ hai
nghĩa này rất lý tưởng để vừa gợi
tới cái chết trên thập giá vừa nhắc tới Bí
tích Thánh Thể.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
Đến đây, bên trong
đám đông, bắt đầu xuất hiện những
nhân vât đặc biệt.
Nhóm đầu tiên là nhóm những người
Do Thái. Chẳng lẽ tất cả
những người làm thành “đám đông” lại không
phải là Do Thái cả sao? Thế mà bên trong đám
đông, tác giả Ga lại phân biệt ra một nhóm riêng
gọi là “người Do Thái”, và ngài coi đây là những
người càm ràm (“xầm xì”) và không tin.
*
Người Do Thái xầm xì (41-42)
Phản
ứng xầm xì của người Do Thái ở đây
tương tự kiểu vấn nạn dân làng Nadarét
đã nêu ra cho Đức Giêsu trong TM Mc (6,1-6).
Phản ứng này còn khiến chúng ta nhớ lại quãng
lịch sử xa hơn ngày trước: Trong sa mạc Sinai,
con cái Israel đã xầm xì để bày tỏ sự
ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào
sứ mạng của ông là do Thiên Chúa trao và khả năng
của ông là cung cấp bánh và nước cho họ (Xh 16,2-3; 17,3). Vẫn đi theo
chiều hướng của tổ tiên, người Do Thái
hôm nay xầm xì để nói lên sự hoài nghi của
họ về tư cách và khả năng của Đức
Giêsu.
Họ
nhắc lại hai khẳng định của Đức
Giêsu (c. 41): Người là bánh và Người từ trời
xuống; đặc biệt họ nhấn mạnh tới
điểm thứ hai. “Cái ông này” (giọng khinh
thường), ta biết rõ gốc gác, thế mà ông ta
lại cho rằng mình có một sứ mạng và một
xuất xứ thần linh (x. 7,27)!
Quả thật, theo niềm tin dân gian Do
Thái, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình, mà
không ai biết Người từ đâu đến. Dựa trên niềm tin này, người Do Thái
nghĩ rằng họ hoàn toàn có cơ sở để bác
bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.
*
Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (43-47)
Đức
Giêsu liền can thiệp, nhưng Người không bao
giờ trả lời câu hỏi về nguồn gốc
của Người trên bình diện nhân loại. Đứng tại quan điểm thần
học, Người cho biết “Chẳng ai đến
với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng
đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44).
Người được Thiên Chúa sai đến (c. 44) và
Người đến từ Thiên Chúa (c. 46), do đó
Người có thể cho rằng Người từ
trời xuống. Nếu người Do Thái
thôi xầm xì, và để cho lòng họ mở ra với
hoạt động của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lôi kéo
họ đến với Đức Giêsu. Đây chính
là lúc lời ngôn sứ Isaia (54,13)
được thể hiện: “Hết mọi
người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”.
Việc dạy dỗ này có một phương diện
bề ngoài, theo nghĩa là nó được cụ-thể-hóa
bởi chính Đức Giêsu đang đi lại giữa
họ, và có một phương diện bên trong, theo
nghĩa là Thiên Chúa hành động trong tim họ.
Điều này cũng ứng nghiệm lời ngôn sứ Gr
(31,33). Sự thôi thúc bên trong này do bởi
Chúa Cha sẽ làm cho họ có khả năng tin vào
Người Con và như thế có sự sống
đời đời.
*
Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người
là bánh trường sinh (48-50)
Các
câu 48-50 là một đoạn theo cách hành
văn đóng khung, vì các câu này nhắc lại phần
mở của Bài diễn từ: Câu 48 cùng với c. 35 làm
thành một câu đóng khung; cc. 49-50 nhắc lại các
đề tài của cc. 31-33. Đám đông đã nêu ra cho
Đức Giêsu gương của các tổ tiên họ
đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng Đức Giêsu cho
thấy rằng việc này đã không cứu
được các tổ tiên họ khỏi chết. Kế
đó, Người lại nhắc lại ý câu trích Kinh Thánh
ở c. 31 (“Người đã cho họ ăn
bánh bởi trời”), Người nói rằng bánh
đến thật sự từ trời là một thứ
bánh không để cho người ta phải chết.
*
Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (51)
Sau
đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài
mới: bây giờ vấn đề không còn phải là tin
vào Người để được sống
đời đời nữa, mà là ăn
thịt và uống máu Người (cc. 51.54). Lâu
nay các tác giả vẫn coi đây là một gợi ý về
Bí tích Thánh Thể, nhưng ta có thể thấy nghĩa
gần là Đức Giêsu nêu bật giá trị của cái
chết của Người trên thập giá. Bởi vì
chính là trong tư cách Con Người mà Đức Giêsu ban
sự sống đời đời và Người lại
trở thành Con Người đúng vào lúc cuối
đời, vào Giờ của Người. Chính
vì nhắm nối dài gợi ý về cái chết trên thập
giá, tác giả dùng từ “thịt” (sarx), thay vì dùng từ
“thân thể” (sôma). Bởi vì ý nghĩa căn bản và
cũng là từ nguồn của thịt mà Con Người
sẽ ban không phải là Bí tích Thánh Thể mà là ân ban “chính mình” trong cái chết trên thập
giá. Vậy tại Caphácnaum, khi nói đến
“thịt để cho thế gian được sống”,
là Đức Giêsu muốn nói là “bản thân Người
(chịu sát tế) để cho thế gian được
sống”.
+ Kết luận
Điều
mà không một thứ bánh nào có thể cung cấp và không
một lời hứa nào của con người có thể
đạt tới, cho dù có xác tín đến đâu,
Đức Giêsu có thể ban tặng. Người mạnh
hơn cái chết và Người muốn đưa chúng ta
đi qua bên kia cái chết. Phần
chúng ta, điều này có nghĩa là chúng ta phải chạy
đến với Người để có sự sống
đời đời, cũng như chúng ta vẫn chạy
đến với bánh trần thế, để có sự
sống trần thế. Nhưng
điều này cũng có nghĩa là các biên giới của
cái chết đã bị đánh đổ. Cũng như trong bánh, chúng ta tìm được
phương thế để tránh thoát cái chết và
tiếp tục ở lại trong sự sống trần
thế, thì cũng thế Đức Giêsu giúp chúng ta
thắng vượt sự chết và đi vào sự
sống vĩnh cửu. Vì bánh giữ cho tôi sống,
tôi phải ăn bánh, chứ không chỉ nói suông về bánh;
vì Đức Giêsu là bánh ban sự sống vĩnh cửu,
tôi phải đón nhận Người, tin vào Người
và “ăn thịt” của Người, chứ không chỉ
bằng lòng với việc biết điều gì đó
về Người hoặc nói về Người, dù sâu
sắc.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu đã thật sự cho đám đông
được ăn no; nhưng biến
cố này không có ý nghĩa tự nó, nó quy về một
thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có
thể ban bánh và cho no thỏa về phương diện trần
thế phải chứng minh rằng Người chính là bánh
ban sự sống đời đời. Ở bên
Người, chúng ta không được tìm cơm bánh
vật chất; trái lại chúng ta phải nhận biết
Người có thể và Người muốn ban cho chúng ta
điều vô cùng to lớn hơn. Điều mà chúng ta
đang tìm kiếm nơi Đức Giêsu và chúng ta phải
nhận được từ nơi Người, có
thể được tóm trong câu này: “Chính tôi là bánh
trường sinh. Ai đến với tôi, không hề
phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35; x. 6,48.51).
2.
Đức Giêsu đã ra sức soi sáng chúng ta và quy
hướng sự chú ý của chúng ta vào ân
ban cốt yếu của Người. Lương thực
ban cho đám đông chỉ là một dấu chỉ. Chúng ta
coi thường dấu chỉ này, nếu chúng ta dừng
lại với các mối quan tâm tức thời và chờ
đợi Người ban cho cơm bánh và sức khỏe;
thật ra Người muốn ban nhiều hơn thế
nữa. Khi nói “Tôi là bánh hằng sống”,
Đức Giêsu đặt mình vào trong mạc khải
của Thiên Chúa mà Môsê đã được thông dự vào
khi được Thiên Chúa kêu gọi. Vào dịp
đó, Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài: “Ta là
Đấng Ta là” (Xh 3,14). Thiên
Chúa được xác định chủ yếu bằng sự
kiện là Ngài hiện diện vì Dân Ngai. Khi
tự giới thiệu mình như thế, Đức Giêsu
nói rằng Thiên Chúa đang hiện diện nơi
Người vì loài người và quan tâm đến chúng ta,
đến đời sống chúng ta. Đức Giêsu
hiện thân là hình thái mới và vĩnh viễn của
sự hiện diện đầy uy lực và năng
động của Thiên Chúa, không chỉ nhắm ban sự
che chở và hướng dẫn, mà còn nhắm có sự
hiệp thông riêng tư về sự sống. Đức
Giêsu không chỉ muốn ban bánh, mà còn ban sự hiệp thông
vĩnh cửu riêng tư về sự sống với Thiên
Chúa.
3.
Chúng ta lệ thuộc cơm bánh, để đảm
bảo được sự sống của chúng ta. Không có sức lực đến từ cơm bánh,
chúng ta không thể sống và làm được gì. Điều này không tùy thuộc ý chí chúng ta; nó là
như thế. Do bản tính tự nhiên, chúng ta
phải nhờ cơm bánh. Có cơm bánh,
cũng có khả năng của cơm bánh là duy trì sự
sống cho chúng ta. Nhưng đây chỉ
là một khả năng giới hạn, vì cuối cùng chúng
ta vẫn phải chết. Với công
thức “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu
khẳng định rằng tương quan giữa
bản thân Người với loài người cũng cùng
một kiểu như tương quan giữa bánh và chúng ta.
Đích thân Người, với tất cả những gì
thuộc về Người, có thể ban cho chúng ta
những gì bánh đưa lại cho chúng ta, nhưng không
chỉ nhằm sự sống giới hạn, mà là sự
sống vĩnh cửu vô biên.
4.
Dây liên kết duy nhất đích thật với Đức
Kitô là tin vào Người. Tôi tin vào Người khi tôi ký thác
tất cả lòng trí tôi nơi Người, xác tín vào
lời Người nói, xây dựng mọi sự dựa
trên Người, nhắm mọi sự theo Người,
liên kết đời tôi vào Người. Đức tin
không phải là một xác tín về trí thức và một
đoan chắc rằng một lời khẳng định
hay một sự kiện nào đó là thật; đức tin
là một thái độ chắc chắn và tin tưởng tỏ
ra với Đức Giêsu, với ý thức trọn vẹn
rằng Người là ai và với sự nhận biết
đầy đủ về chân tính của Người. Đức tin là tương quan và dây liên kết
người với người. Niềm tin vào
Đức Giêsu đưa lại sự sống đời
đời (6,47).
|