Thánh Gioan Maria Vianney và Tòa Giải
Tội
Có thể nói rằng: phép lạ vĩ đại của cha Thánh Gioan Maria Vianney
là tòa giải tội, nơi tội nhân được
ơn hoán cải. Mỗi ngày, ngài ngồi giải tội từ
11 giờ đến 12 giờ vào mùa Đông, và thậm chí
là 16 đến 18 giờ vào mùa Hè. Khi hành
hương đến xứ Ars, trước tiên tôi tìm
đến tòa giải tội nơi thánh nhân ngồi
mấy mươi năm, quỳ gối cầu nguyện
và xin ngài chúc lành cho sứ vụ hòa giải trong đời
linh mục của mình.
Công
việc mục vụ ngồi tòa, giải tội là sứ
vụ đức ái mục tử đẹp nhất trong
cuộc đời của cha thánh, là hoạt động
sáng chói nhất trong nhiệm vụ của một mục
tử.
Thời
trẻ, Gioan có một tâm nguyện: “Nếu một ngày nào
đó tôi được làm Linh mục, tôi sẽ đưa
nhiều linh hồn về cho Chúa”. Khi làm Linh
mục, ngài đã thực hiện tâm nguyện ấy.
Tòa giải tội là nơi ngài đưa các
linh hồn về cho Chúa nhiều nhất. Tòa giải
tội đã thu hút biết bao hối
nhân tìm đến với xứ Ars. Tòa
giải tội là phép lạ lớn nhất trong cuộc
đời của thánh nhân. Đức Giáo Hoàng Piô XII
viết về cha thánh Gioan Maria Vianney một câu thật
ngắn gọn: “Một chuyên viên thành thạo nhất
về các tội nhân”.
1.
Thời gian ở tòa
giải tội.
Một phần
lớn cuộc đời Linh mục của cha Vianney trôi
qua trong tòa giải tội. Trong
30 năm dài, một làn sóng người hành hương không
ngừng đổ về ngôi nhà thờ cũ kỷ của
họ Ars. Mùa đông rét buốt, số
người đến đây không ít hơn các mùa ấm áp.
Tứ tháng
11 đến tháng 3, cha sở phải ngồi tòa trung bình
không dưới 12-13 giờ mỗi ngày.
Người ta đứng thành hàng dài, từ
trong nhà thờ ra bên ngoài, nối đuôi nhau không ngớt chờ
đợi tới phiên mình.
Trong năm
1845, có ngày số người hành hương đến Ars
lên tới ba hay bốn trăm. Tại nhà
ga lớn nhất của Lyon, người ta mở một
văn phòng hoạt động 24/24 để bán vé tàu cho
khách đi Ars, vé có giá trị tám ngày, đó là thời gian
trung bình người ta phải đợi cho đến
phiên mình vào tòa xưng tội với vị Linh mục thánh
thiện nổi tiếng.
Vào mười năm cuối
đời, Thánh Vianney phải giải tội từ mười
sáu đến mười tám tiếng một ngày! Còn khách
hành hương nói chung phải đợi
ba mươi, năm mươi, bảy mươi giờ
trước khi được lãnh nhận bí tích hòa giải.
Cũng có khi người ta mua lại chỗ
đứng của người nghèo. Ai
muốn đi ra ngoài phải thỏa thuận với
người bên cạnh hoặc với người bảo
vệ nhà thờ. Đêm thì sao? Khi cửa nhà thờ đóng lại, người
ta đánh số chổ của mình. (x.Linh
mục, người loan báo Tin Mừng, Lm Nguyễn Hồng
Giáo, OFM).
2. Ai đến với tòa giải
tội?
Họ gồm đủ mọi
thành phần và lứa tuổi: có giáo dân, tu sĩ, linh mục
và đôi khi cả giám mục nữa; họ là quý tộc và
bình dân, kẻ vô chủ nghĩa và người học thức,
người thành thị và người thôn quê,…
Có khi nguyên một gia đình ngồi trên xe
ngựa đến từ những tỉnh xa xôi. Từ những
vùng lân cận, người ta tuôn về đây bằng
đôi chân hay bằng xe, theo đường
bộ hay đường thủy. Năm cuối cùng của
cuộc đời cha Vianney (1858-1859), số khách hành
hương lên tới tám mươi ngàn, chỉ tính riêng số
người dùng các phương tiện chuyên chở công cộng;
còn tính chung có lẽ là khoảng một
trăm ngàn đến một trăm hai mươi ngàn.
Đám
đông này rất trật tự và nghiêm trang.
Họ đến là để nhìn một vị
thánh, để xưng tội, để cầu nguyện
hay để hoàn thành một lời khấn với thánh nữ
Philomêna. Có những người vào làng
Ars như vào một đền thánh; vừa nhìn thấy tháp
chuông nhà thờ, họ liền cất nón mũ xuống và
làm dấu thánh giá. Một nhân chứng kể lại
quang cảnh họ nhìn thấy vào tháng ba năm 1859: đông
đảo những người ngoài họ Ars đứng
trong nghĩa trang cũ và đến tận trong những
con đường nhỏ kế cận chờ đến
phiên vào tòa giải tội.
Buổi sáng vào khoảng
chín giờ, Cha Vianney dành một số thời gian cho các tu
sĩ và linh mục. Ngài giải tội cho họ
ở một tòa đặt sau bàn thờ chính. Có lần Đức Giám mục địa phận
nhà cũng ngồi chờ phiên mình. Cha giải tội
cũng dành một số ngoại lệ cho giáo dân con chiên
cha, người bệnh, người tàn tật và những
hối nhân không thể chờ đợi. Đối với
trường hợp cuối cùng này, ngài thường dùng
ơn “nhìn thấy trong tâm hồn” để nhận ra từ
trong dòng người chờ đợi, rồi ưu tiên
cho họ.(sđd, trang 62-63).
- Cha
Vianney khuyên bảo các hối nhân như thế nào?
Nói chung,
ngài mạnh mẽ thẳng thắn, nhân từ nhưng không
yếu đuối. Ngài biết cần phải
“đánh” điểm nào cho trúng đích. Đọc
một số lời khuyên còn ghi lại, tôi thấy ngài
thường ngắn gọn, đầy tâm tình chứ không
máy móc lạnh lùng.
Để lay
tỉnh những “đại tội nhân”, khá nhiều khi
ngài tung ra một câu đanh thép: “này con, con bị luận phạt
đời đời”. Phát ra từ môi miệng một vị
thánh mà người ta tin là ngài đọc được
tương lai, câu đó giống như một lời phán
quyết khủng khiếp. Nhưng thật ra ngài chỉ muốn
nói: “nếu con không xa lánh dịp tội ấy, nếu con cứ
duy trì cái thói quen tội lỗi ấy, nếu con không nghe theo lời khuyên dạy thì con sẽ bị luận
phạt”.
Đối với
những người đạo đức, ngài không cần
nhiều lời. Nhưng ngay cả với
trường hợp này, vẫn là những mũi tên nóng bỏng
đâm thấu tận con tim: “xin Đức Cha yêu
thương các Linh mục của ngài!”.
Đó là lời duy nhất ngài nói với Đức cha De
Langalerie, Giám mục địa phận Belly đang quỳ
gối trước mặt ngài. Một cộng sự viên gần
gũi của ngài xưng thú: “con đã
lười biếng làm điều này nhưng tận
đáy lòng, con vẫn thiện chí”, cha giải tội
đáp lại duy nhất một câu “Ồ! thiện
chí, thiện chí … hỏa ngục cũng lót toàn thiện
chí”. Linh mục Monnin kể: “tôi đã xưng tội với
ngài hai lần. Lần nào cũng thế, sau mỗi tội
tôi xưng ra dù là tội nhẹ nhất, ngài đều nói:
‘đáng tiếc quá’. Từ một người khác, đó
có thể là một cách nói thông thường, nhưng từ
môi miệng của Cha Sở họ Ars, Linh mục Monnin coi
như là tiếng kêu của lòng tin, lòng thương xót và sự
ghê tởm đối với tội lỗi; ngài thêm: “Nhất
là giọng nói đầy âu yếm đã đánh động
tôi” (sđd, trang 64).
4. Cha Vianney yêu thương tội
nhân.
Cha Vianney ghê
tởm tội lỗi bao nhiêu thì yêu mến người tội
lỗi bấy nhiêu. Ngài có một
lòng cảm thương vô bờ đối với hối
nhân. Tình yêu ấy được biểu
lộ qua những nhân đức sau đây.
- Cầu
nguyện cho tội nhân.
Xen
lẫn với kinh nguyện hằng ngày, ngài thường
khóc lóc mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa không muốn
kẻ có tội phải chết… Những
người có tội thật đáng thương.
Ước gì con có thể thú tội thay cho họ”. Một
người thân tín nói với ngài: “Cha cầu nguyện cho
họ ít đi một tí được không? Thấy cha
vất vả đau khổ quá!. Ngài
trả lời: “Biết sao được. Cha đã
hứa cầu nguyện cho họ, cha không thể bỏ…”. Lần khác ngài tâm sự: “Tôi chỉ
thực sự là tôi khi tôi cầu nguyện cho những
người tội lỗi”.
- Đền
tội thay cho họ.
Ngài ăn
chay hãm mình để đền bù
tội lỗi và mong cho tội nhân hối cải.Trong những năm cuối đời, ngài
thường ra việc đền tội nhẹ cho
hối nhân. Ngài nói: “Tôi ra việc đền tội nhẹ
cho họ, phần đền tội còn lại, tôi sẽ
làm thay”. Và ngài làm thay bằng chính sự
khổ chế của mình. Tất nhiên,
không phải lúc nào cũng vậy. Đối
với những lỗi nặng mà cứ tái phạm mãi, ngài
bắt hối nhân phải làm những việc đền
tội nặng, để họ chứng tỏ sự chân
thành và quyết tâm sửa đổi, hầu đem lại
lợi ích cho chính họ. Cha Vianney nhiều
khi còn khóc trong tòa giải tội nữa. Ngài khóc vì
người ta xúc phạm tới Chúa, ngài cũng khóc vì
thương các linh hồn… Chính sự thánh thiện của
ngài mang lại cho lời khuyên răn và nước mắt
của ngài có sức mạnh và hiệu lực. Có
người hỏi: “sao cha khóc thế?” ngài đáp ngắn
gọn: “tôi khóc vì các ông các bà không khóc cho đủ”.
- Yêu
thương tội nhân
Đối với những tội nhân
cứng lòng, ngài tìm hết cách giúp họ thống hối
như gặp gỡ, khuyên nhủ, khi nặng khi nhẹ, và
ngay cả bằng nước mắt. Nước mắt và Thánh giá, nhờ ngài, có
thể làm cho một trái tim chai đá
trở thành trái tim thịt mềm. Có người lúc
trước đã trả lời thẳng thừng: “Tôi
không muốn xưng tội”, hoặc: “Tôi không đến
đây để làm cái chuyện đạo đức
của mấy bà”. Mặc kệ. Cuối cùng tất cả đều quỳ
xuống dưới chân ngài và xưng thú. Chúa đã ban
cho ngài một trực giác lạ lùng để nhận ra
giữa đám đông hoặc giữa những
người đi qua, ai là kẻ cần được
đưa về với Chúa nhất để giúp họ,
trước sự ngạc nhiên của chính họ. Do đó
mà khi có người buột miệng hỏi: “Mỗi
năm cha bắt được bao nhiêu cá lớn?”, ngài trả lời ngay, không lưỡng
lự: “Hơn 700”. Không nhớ con số sao được
đối với những con cá như thế!
- Luôn
nhẫn nại
Một dù vất vả ngồi tòa và có
những chuyện dễ làm người ta bực mình,
nhưng ngài thì không.
Ngược lại, ngài tỏ ra đặc
biệt nhẫn nại. Đây là một
trong những đức tính nổi bật nhất nơi
ngài. Một linh mục đã nhận xét
: Tôi đã từng quan sát kỹ xem ngài có tỏ ra
bất nhẫn bực tức lúc nào không, mà không thấy.
Đem chuyện này hỏi ngài thì được ngài
trả lời: “Phải nhẫn nại mới có thể
cho cái người ta cần chứ !
Bất nhẫn thì được cái gì ?”
Ngài cũng nói với một cha bạn: “Hãy học tập
sự nhẫn nại của Chúa”.
- Hiền
hòa, kính trọng hối nhân.
Vào thời kỳ cao điểm, bình quân
mỗi ngày có từ 300 đến 400 người xếp hàng
xưng tội. Công
việc vất vả và liên tục trong 30 năm này đã
làm cho ngài kiệt lực, đến nỗi có lần ngài
tự thú: “Khi tôi rời tòa giải tội, tôi phải
lấy tay sờ vào đùi xem nó có còn ở đấy không.
Đôi khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải
vịn vào tường mà đi cho khỏi ngã. Đầu tôi nặng trĩu. Thực
sự tôi đã không biết mình chống lại như
thế nào”.
Suốt ngày
bị công việc mục vụ dồn ép như thế, ngồi
nghe hối nhân hàng giờ như thế mà ngài vẫn không mất
kiên nhẫn, không la lối nạt nộ ai bao giờ, thật
là lạ lùng.
Ngài luôn hiền hòa, tế nhị, kính
trọng đối với hối nhân, bất kể là ai. Có Linh mục sa ngã
nặng đến xưng tội vẫn được
ngài yêu mến, kính trọng. Lời khuyên dành cho Đức
Giám Mục Giáo Phận đến xưng tội với
ngài là : xin Đức cha hãy yêu
thương các Linh mục của Đức cha.
Dù có đông người xếp hàng bên tòa
giải tội, ngài vẫn dành cho mỗi người
một thời gian cần thiết, bởi người nào
cũng có vấn đề riêng của mình. Ngài không khuyên dài, nhiều khi
chỉ một lời thôi, nhưng là lời làm cho hối
nhân phải động tâm suy nghĩ, một lời tác
động mạnh trên họ có khi cả đời.
Chính sự thánh thiện và yêu thương
đem lại sức mạnh và hiệu năng cho lời
đó. (x. Thánh Gioan Maria Vianney, bổn
mạng các Linh mục, Lm
Micae Trần Đình Quảng; simonhoadalat.com).
5. Theo gương cha thánh, Linh
mục cử hành Bí Tích Hòa Giải
Giải tội là một tác vụ
khó khăn nhất, đòi hỏi nhất, nhưng đó là
một tác vụ cao đẹp nhất, an
ủi nhất của Linh mục trong đời mục
vụ. (x.Chân dung Linh mục trang 39, ĐGM
Giuse Vũ Duy Thống).
Là tác vụ khó khăn
nhất bởi lẽ, ngồi
tòa giải tội giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày
khác. Với một tư
thế không đổi là lắng nghe, phân định, khuyên
nhủ, ban phép giải tội. Nghe đi nghe
lại đủ thứ tội luỵ trần gian.
Linh mục Nguyễn Tầm Thường đã dùng hình
ảnh “cái bô rác” để nói về lỗ tai các Linh
mục, chứa đựng mọi rác rưới tội
lỗi hồng trần, nhưng Linh mục không để
mình bị lây nhiễm rác rưới.Trí óc luôn làm việc
căng thẳng. Một tư thế ngồi, tay cầm tràng hạt, tay chống trán,
đầu tựa vào tòa nghe chăm chú. Có khi
cơ thể mệt mỏi ê ẩm mà không được
nghĩ ngơi.
Là tác vụ đòi hỏi nhất
bởi lẽ, trước khi ngồi
tòa, Linh mục đã phải chuẩn bị bằng cách
trang bị kiến thức tương hợp; trong khi
giải tội, linh mục phải vận dụng khôn ngoan
để phân định, cương nghị để
khuyên can, nhân từ để xá giải; sau khi đã ra
khỏi tòa hòa giải, Linh mục phải trung tín với
ấn tòa giải tội. Nếu điều
Linh mục phải nhớ trong ngày là sách nguyện, thì
điều Linh mục phải quên chính là tội
người ta xưng.
Là một tác vụ cao đẹp
nhất và an ủi nhất bởi lẽ, qua trung gian Linh mục, hối nhân gặp
được trái tim đầy
thương xót của Thiên Chúa. Và đó là
hạnh phúc. Người ta bảo trên đời có ba
bóng dáng hạnh phúc tinh ròng: mẹ đem con đi rửa
tội về, người lành tạ thế và hối nhân
từ tòa giải tội bước ra.
Nếu như hạnh phúc của
người truyền giáo là có một người
được rửa tội thì hạnh phúc của Linh
mục giải tội là có một tội nhân
được giao hòa với Chúa, được tìm
lại ơn thứ tha và nguồn bình an, niềm vui tâm
hồn. Hối nhân
càng nhiều tội lỗi, càng lâu năm xa cách nguội
lạnh mà được ơn trở lại thì Linh
mục càng dâng đầy hạnh phúc. Có
những hối nhân đã khóc nức nở khi sám hối
về tội lỗi của mình và nhận ra lòng
thương xót của Chúa. Họ quỳ đó, khóc
chân thành với những dòng lệ ăn năn.
Nước mắt hạnh phúc của người con
trở về với Cha nhân từ. Những
nổi đau thể xác, tâm hồn được bộc
bạch. Có những người mẹ,
người vợ thổ lộ tâm sự của gia
đình, tâm tư không thể nói cùng ai chỉ trừ Cha
giải tội. Thanh niên nam nữ
với những thao thức tuổi trẻ xin linh
hướng. Thiếu nhi đón
nhận lời thăm hỏi khuyên bảo.
Có
nhiều tâm hồn trong sáng, thánh thiện đến tòa
giải tội đã làm gia tăng lòng đạo
đức của linh mục.
Thi hành tác vụ cao đẹp ấy, Linh
mục là người diễn dịch lòng yêu thương
nhân từ của Thiên Chúa (Thư Thứ Năm Tuần
Thánh 2002, số 3).
Để có thể thi hành tác vụ của
lòng thương một cách hữu hiệu, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II khuyên Linh mục phải sống khả tín
và khả ái.
-
Khả tín: “Thật
vậy, dù ơn Chúa ban có thể hoàn tất công trình cứu
rỗi qua những thừa tác viên bất xứng, nhưng
thường tình Thiên Chúa muốn tỏ ra những việc
lạ lùng của Ngài qua những vị sẵn sàng đi
theo sự thúc giục và hướng dẫn của Thánh
Thần hơn, bằng kết hợp mật thiết
với Chúa Kitô và bằng một đời sống thánh
thiện” (PO, 12)
-
Khả ái: “Người
ta thường muốn được nhận biết và
chăm sóc, vì chính trong tư thế gần gũi
này mà họ có thể cảm nghiệm được tình
yêu Thiên Chúa một cách mạnh mẽ hơn” (Thư TNTT
số 9). Linh mục phải làm hết cách để
lòng thương xót của Thiên Chúa được sáng lên
giữa những cử hành“Nghiêm nhặt quá làm cho dân chúng
bị dằn vặt tháo lui. Dễ dãi qúa gây hiểu
lầm và ngộ nhận. Đấng giải tội
rập theo gương Chúa Chiên lành mà tha
tội phải diễn đạt đúng mực
thước lòng đã sẵn có và sự tha thứ hầu
mang lại an bình và chữa lành” (Thư TNTT số 8).
Nhân ngày lễ kính thánh Gioan Maria Vianney (ngày 4
tháng 8), đọc lại nét tiêu biểu cuộc
đời thánh nhân nơi tòa giải tội. Như người ta
đã nói: phép lạ lớn nhất của cha Vianney
thánh thiện là tòa giải tội của ngài bị bao vây
suốt ngày đêm. Cũng có thể nói cách khác: phép lạ
tiêu biểu của ngài là sự hoán cải của những
người tội lỗi. Các Linh mục noi
gương cha thánh thực thi sứ vụ khó khăn và cao
đẹp này. Mỗi lần ban ơn xá
giải là Linh mục thấy mình được cộng
hưởng trên đường nên thánh.
Lm
Giuse Nguyễn Hữu An
|