SAI NHÓM MƯỜI HAI ĐI RAO GIẢNG (6,7-13)
Mãi
đến lúc này Maccô mới kể cho chúng ta biết
thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài
(1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười
Hai để họ “ở với Ngài” và chia sẻ sứ
vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài
mới sai họ đi rao giảng (c. 7). Nhóm
Mười Hai sẽ xứng đáng với tước
hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai
đi” thi hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh
nhận. Trong chương ngắn gọn này,
xem ra Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang
của một thừa sai hoàn hảo. Lối
hành văn vấp váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô
đã sử dụng lại một truyền thống có
trước ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu sai các môn đệ đi
từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu
có phải là một tập tục Do Thái không? Theo
luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận
được một lời khai (Đnl 19,15).
Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của
cộng đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc
đơn lẻ mà làm việc theo
từng nhóm. Các Kitô hữu sơ khai đã
lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa
Giêsu. Trong công vụ sứ đồ, các thừa sai
luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và
Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2);
Giuđa và Sila (Cv 15,22b)… Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai
này một phần quyền năng của Ngài, đó là
quyền trừ quỷ, như là một trong dấu
chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa
đã được khánh thành.
Điều
đáng nhớ trước hết: các lệnh Chúa Giêsu
truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh
truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên,
các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn
mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai
phải chứng tỏ cho mọi người thấy.
Ngay cả những gì thiết yếu (như
bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được
nhận lãnh như những quà tặng của những
người được họ ghé thăm. Phong thái
họ cực kỳ đơn giản giống như
những lữ khách lòng không hề vướng bận
(không túi xách đi đường, không áo dài để thay
đổi). Ngược với Matthêu và Luca,
để bước đi cho dễ, Maccô cho rằng
gậy và dép là cần thiết. Vào
thời đó, hầu như người ta thường
đi chân không. Tuy nhiên để đi
nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải
có gậy và dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình
bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những “khách hành
hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như
những kẻ được mô tả trong nghi thức
lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép
xỏ vào chân, tay cầm sẵn gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên quan đến việc tiếp
đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi
rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi,
nên họ có quyền được những gia đình mà
họ ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi.
Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt, mà chỉ có
thể được đón nhận trong tự do. Nếu
thành phố hay làng mạc nào từ chối không đón
nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác
nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự
từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi
thức xưa kia thường
được dùng ở phương Đông: Phủi
bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi
chốn thù nghịch để tỏ dấu tuyệt giao!
Giống
như Chúa Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên
đường loan báo Nước Thiên Chúa đã
đến và mời gọi mọi người hoán cải
(1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực
lời nói của họ bằng việc ban phát những
dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu trên bệnh nhân chứng
thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa.
Người ta từng biết công dụng
hữu ích của việc xức dầu lên thân thể.
Giáo Hội về sau đã nhận ra trong tập tục này
mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức
dầu bệnh nhân để chữa lành thể xác và tâm
linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối
với chúng ta ngày nay xem ra rất cổ kính xét về
mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu
ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục
thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện
thực. Tin Mừng phải luôn luôn
được cơ động mang đến khắp
mọi nơi bằng những phương tiện nghèo
khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng
này mời gọi lương tâm tự do đón nhân. Đây
là lời nói đi kèm theo các dấu
chứng sự chiến thắng của Chúa Kitô trên sự
Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp
trường cửu của trình thuật rất cổ kính
này.
|