Khát vọng
lên trời – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào đời
Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay
sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền
hịch đi khắp nơi để tìm người tài
giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ
ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi
mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời
nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt
giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với
Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu
một con ngựa bằng sắt, để cậu đi
đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền
tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền
vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh.
Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên
yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân.
Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi
về trời. Vua nghĩ là thiên thần của
trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một
đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên
Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng
của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang
quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền
hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng.
Vì thế mà ước mơ có được
sứ thần từ trời cao đến cứu giúp.
Một khát vọng ngàn đời, được tự do
và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại
luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất,
ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn
ước vọng, phải làm sao lên được trời
cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06
năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên
trời bằng khí cầu được 500 mét trước
hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm
1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng
khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của
Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia
người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt
trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ.
Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái
đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng
lễ Chúa Giêsu lên trời.
Người trở về nhà Cha, sau khi đã
hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian
33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang
phục sinh và "được đưa về trời
ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16,19). Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật
huyền diệu. Thân xác Người nhẹ
bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào
không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần
và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ
chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế
khải hoàn. Tác giả
Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc
nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: "Hỡi
các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất
cao đầu lên. Hỡi các cửa triều
đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua
vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua
vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm
liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi
các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình
vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua
vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là
Thiên Chúa hùng dũng uy linh".
Đoàn tùy tùng theo Chúa
về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu
Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công
chính...đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc
biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ
Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung
nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn
môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí
như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan:
"Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi
cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ,
Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả"
(Tv 47, 2-3, 6-9). Chúa về trời vì chính Người
đã từ trời xuống thế: "Không ai đã lên trời,
ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời
xuống" (Ga 3,13). Người đến
nhân gian để nói với nhân loại về Nước
Trời, mặc khải cho con người biết Thiên
Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về
Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Chúa về trời, một
cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi
sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa
về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng
quy hướng về Người để rồi đối
với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là
được ở trong Người, đón nhận sự
sống sung mãn Người ban tặng. Nhận
thức được niềm hạnh phúc ấy, đời
sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự
thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi
đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố
không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng,
và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người
hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục
sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi,
Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con
người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào
Người. Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống
bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm
thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân
Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai
người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn
còn thấy rất xa xôi. Những người
yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó
không thể xảy ra giữa loài người được
vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo
ra một ngăn cách. Điều con người không
thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã
hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần,
Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi
chúng ta. Chính Người đã nói " Ai yêu mến Thầy
thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến
nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người
ấy" ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu
hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ
ngôn cây nho và cành nho " Thầy là cây nho
các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại
trong người ấy thì người ấy sinh nhiều
hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được"(Ga
15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc
với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong
con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn
là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của
Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Bài Tin mừng hôm nay kết
thúc Phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi
đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc
truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của
Chúa: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo". Nội
dung của việc truyền giáo được chỉ
định rõ ràng: "Làm cho muôn dân trở thành môn đệ
của Thầy. Làm phép rửa cho họ.
Dạy bảo họ tuân giữ những
điều Thầy truyền cho anh em". Bảo chứng
cho sứ vụ truyền giáo là: "Có Chúa cùng hoạt
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng".
Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho
các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các
môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống
đương thời với chúng ta "và đây, Thầy
ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu
rỗi của Người. Sứ mệnh của
Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ
mệnh đó phải được thể hiện bằng
lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong
khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện
cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình
và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp
tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn
đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ
Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền
với mệnh lệnh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19). Vì
thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với
sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ
thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận
dụng những phương tiện truyền thông hiện
đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin
mừng.
Trong Sứ điệp truyền thông
2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những
ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và
mạng xã hội: "Có thể giúp con người ngày nay
tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những
vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng
trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện,
suy niệm, chia sẻ Lời Chúa". Giáo Hội tìm cách hội
nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong "nền
văn hoá mới này" do những những phương tiện
truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ
mới, những kỹ thuật mới và với những
cách cư xử mới.
Đứng trước một
lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ
nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng
đến từng nhà?
Đây là câu trả lời đích xác: "Giáo Hội cần
khám phá những cách thế để tận dụng mọi
phương tiện truyền thông đại chúng vào kế
hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ,
nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức
mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp
xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng
như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị
của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn
hóa của Châu Á". (x. Tông Huấn Giáo Hội
tại Châu Á, số 48).
Cho dù phương tiện
truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực
vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của
truyền thông cũng phải phát xuất từ đức
tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức
tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: "Trong thinh lặng,
tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều
mình muốn nói và muốn người khác đón nhận.
Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả
chính mình tốt hơn". (Sứ điệp Truyền
Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm
nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện
truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục
đích và kết quả như mong muốn cần có
tĩnh lặng: "Trong thinh lặng của chiêm niệm,
Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ
hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch
cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch
sử bằng lời nói cũng như hành động"
(Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi
người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe
được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp
với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời
Chúa cho người khác. Chỉ có những
người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể
làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Mỗi Kitô hữu là chi thể
của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những
cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người
không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ
và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời,
chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu
độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về
nhà Cha trên trời.
|