Yêu
thương.
Dọc theo triền
núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời,
trên bia mộ có khắc dòng chữ: “Tôi thương người,
nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của
Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại
sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ của anh ta?
Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu
khó đi học nghề tìm mạch nước. Bạn bè
khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước,
học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa
chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì
đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến
chùa ngủ, cắn răng chịu đựng và vẫn tiếp
tục theo đuổi cái nghề ấy.
Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn,
giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc
bấy giờ người ta chợt nhớ đến
chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch
nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân
chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ
vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày,
nay uống quá độ nên ngã lăn ra
chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám
người có thân nhân bị chết xông vào đánh đập
chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng
nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng
người”.
Đó là câu chuyện ngày xưa,
sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật
số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề
là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “Ngồi buồn
viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như
sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách
đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi
chờ đợi rất đông, cùng với số lượng
hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh
đông đúc chen chúc như vậy, có một
người đàn bà còn trẻ, y như một người
mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai
thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến
khản cả giọng mà chung quanh chẳng
ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị
một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy?
Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai
đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi,
ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo
đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt
đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn
đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ
còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một
mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy
đến gặp một đồng chí công an đề
nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách
thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ
đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi,
biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi
người giúp chị ta”. Đồng chí công
an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi
lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn
dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn
kêu gào giữa hàng ngàn hành khách sân ga Hàng Cỏ như kêu gào
giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên
nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với
nhau, như là gợi ý để mọi người suy
nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời
trăn trối, lời di chúc của Chúa Giêsu nói với các
môn đệ trước khi từ biệt các ông để
đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng:
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu
thương nhau”.
Yêu thương là một trạng
thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ
khi có con người trên mặt đất đã có vấn
đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dậy yêu
thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương.
Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã
có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy:
“Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế, Ngài đã giảng
dạy yêu thương, thực hiện yêu thương trọn
vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt
mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài
nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến
Chúa, đồng thời coi những hành động yêu
thương như dấu chỉ để mọi người
nhận ra môn đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ
vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu
thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là
một lệnh truyền, một sứ mệnh của
người Kitô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật
này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải
yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba
điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử
nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường
nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành;
nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của
người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời
thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi
chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất
mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh
và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam
châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm
thông thường của con người. Nói theo
Á Đông, tức giận là một trong thất tình của
con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn,
có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải
là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận
ai, giận gì việc gì… Dù lý do nào đi nữa, chúng ta
cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận
dữ chẳng được ích gì, nóng
giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường
đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để
nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không
xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc
độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một
mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết
chết ít nhất ba người; giết kẻ bị nói
xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ
nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện
sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số
phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt
của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng
bừng”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương
nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách
để thể hiện lòng yêu thương đối với
nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử
nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận
nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
|