Đức Giêsu hiện
ra với các môn đệ – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc
Tôma đòi hỏi những chứng cứ để tin
như thế có gì quá đáng không? Có gì
tích cực, đáng khen trong sự đòi hỏi đó không?
Để tin cho vững chắc đến mức có thể
dấn thân hết mình cho niềm tin ấy, việc đòi
hỏi những chứng cứ chắc chắn có cần
thiết không?
2. Trong Kitô
giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu
để được cứu rỗi. Nhưng đức tin ấy có cần phải có
chất lượng không? hay chỉ
cần một đức tin xoàng xoàng là đủ? Đức tin có chất lượng là gì?
3. Một người
tuyên xưng đức tin mạnh mẽ có chắc chắn
là một người có đức tin mạnh mẽ không? Tuyên xưng thật mạnh mẽ nhưng lòng thì
không tin được như vậy, đó có phải phần
nào là giả dối không?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ của
Tôma: đòi hỏi bằng chứng mới chịu tin
Bài Tin Mừng
hôm nay nói đến thái độ của tông đồ
Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh
trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay vào
lỗ đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh
sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí thiên về thực
nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông
đòi buộc ông phải làm như thế, nếu không, ông
không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống
lại, vì việc sống lại quả hết sức khó
tin. Nhưng rất có thể là sau khi
được thỏa mãn những đòi hỏi ấy,
Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông
đồ khác. Người ta vẫn nói: «đại
nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ
lớn)! Các tông đồ khác - với bản tính
đơn sơ, dễ tin hơn - không cảm thấy phải
có những bằng chứng rõ ràng như Tôma mới tin
được. Các ông chỉ dựa vào một số những
biến cố thấy được nơi Thầy mình
trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo,
khả năng làm phép lạ như hóa bánh ra nhiều, làm
sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm
được cho kẻ chết sống lại nhiều lần,
v.v... là các ông đã đủ để
tin rồi.
Đòi hỏi hay không
đòi hỏi bằng chứng để tin không phải là
chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc
vào bản tính Trời cho của mỗi người. Điều quan trọng là phải làm sao để
tin cho chắc, tin cho vững, tin tới mức có thể
dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những
người rất dễ tin, vì thế niềm tin ấy
không được xây dựng trên cơ sở vững chắc
để có thể giúp họ dấn thân hết mình cho
điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử
thách, nghe những lý thuyết ngược lại, thì đức
tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu
dễ tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ
tin trong những trường hợp khác! Hay dễ
được thì cũng dễ mất! Cũng
có những người đòi hỏi đầy đủ
chứng cớ mới chịu tin. Có thể
họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ.
Nhưng một khi đã có chứng cớ làm
cơ sở để tin, thì họ lại tin rất vững
chắc tới mức độ có thể dấn thân hết
mình cho niềm tin ấy. Hạng người
sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại
hơn. Cũng có thể có những
người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc
và không thay đổi được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn
có thể xảy ra, vì trong thực tế vẫn có những
điều rất nghịch lý!
Trong Kitô
giáo, đức tin là một yếu tố quan trọng hàng
đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không
quan trọng bằng chất lượng của đức
tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và
người tin một cách xác tín cũng là tin. Nhưng giá trị của hai thứ đức tin
ấy khác hẳn nhau.
2. Trong Kitô giáo, đức
tin là yếu tố quan trọng hàng đầu
Người
Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn, tức hạnh
phúc vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất.
Họ có thể hy sinh tất cả mọi thứ khác trên
đời cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó
chính là sự khôn ngoan căn bản của họ. Vì như
Đức Giêsu nói: «Được lời lãi cả thế
gian mà mất sự sống đời đời thì ích lợi
gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn
được sự sống đời, thì phải tin vào
Thiên Chúa, vào Đức Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của
Ngài như một điều kiện không thể không có:
«Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu
độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc
16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu
là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người
sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ
được cứu độ» (Rm 10,9).
3.Nhưng
điều quan trọng là chất lượng của
đức tin
Nhưng thế
nào là tin đúng với ý nghĩa của chữ «tin»?
Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên
Chúa, vào Đức Giêsu, nhưng thật ra họ chẳng
tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa
gửi đến cho họ một vài thử thách là họ
sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức
độ nào.
Thật vậy,
trong những điều kiện bình thường không có gì
đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức
tin rất mạnh mẽ, rao giảng đức tin hùng hồn
không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ
đức tin, họ không ngần ngại lên tiếng kết
án những kẻ xem ra yếu đức
tin hoặc tin khác với mình. Nhưng khi có thử thách xảy
tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải
lên tiếng bảo vệ đức tin, bảo vệ Giáo
Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo
vệ này đòi hỏi phải trả một cái giá nào
đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất
động, bỏ mặc đức tin, Giáo Hội và công
lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn
thân hy sinh, chịu thiệt thòi một cách cụ thể mà
trước mắt không được bù đắp lại,
lúc đó họ mới nhận ra đức tin của họ
- mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ - hóa ra
là thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ
ngoài miệng mà thôi!
4. Tin thật trong
lòng quan trọng hơn tuyên xưng ngoài miệng
Phải nói rằng chúng
ta chú tâm vào việc tuyên xưng đức tin hơn là sống
đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng
miệng, bằng lời nói nhiều hơn bằng hành
động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái dễ
hơn, cái «rẻ tiền» hơn để thực hiện,
chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù là
«đắt giá», vì thế, đời sống đức
tin và việc truyền giáo của chúng ta không đi đến
kết quả mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «có tin thật
trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài
miệng mới được ơn cứu độ» (Rm
10,10). Chúng ta có vẻ coi việc xưng
ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong
lòng. Có phải chúng ta coi việc «được
ơn cứu độ» quan trọng hơn việc
«được nên công chính»? Nhưng cần xét lại
xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu
độ nhờ «xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy
của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải làm cả hai,
và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng
và cần thiết hơn điều sau (xưng ra ngoài miệng)!
Điều sau chỉ là hiệu quả chứng
tỏ điều trước mà thôi. Vì theo tự
nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45). Lòng không đầy mà ngoài miệng
lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có
thể đã có phần nào giả dối trong đó!
Thật vậy, thứ
đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng
chứ không được chứng tỏ bằng hành động
chỉ là đức tin giả dối, hay «đức tin chết»:
«Đức tin không có hành động là đức tin chết»
(Gc 2,17.26). Liệu người
ta có thể được cứu rỗi với thứ
«đức tin chết» ấy không?
5.«Phúc
thay những người không thấy mà tin!»
Quả thật, nếu
thấy rồi thì đâu còn là tin nữa, mà là thấy, biết!
Như vậy, tin khác với thấy, biết.
Tin chỉ có ý nghĩa khi đối tượng tin còn mù mờ,
chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm
được một số chứng cứ để tin,
vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận
vượt khỏi giới hạn mà những chứng cứ
ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố
mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị một
chứng bệnh rất nguy hiểm mà tôi đã thoát
được. Tôi tin điều ấy, chứ không
phải tôi biết hay thấy điều ấy. Để
tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý trí
và ý chí. Lý trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực
này:
- bố
mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó.
- bố
mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối
- tôi
thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt
tôi điều này.
Những chứng
cứ ấy chưa đủ để tôi có thể kết
luận chắc chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác
đáng ấy, tôi xác định rằng điều bố
mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là
sự thật. Xác định điều ấy khi
chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự
do.
Lời của Đức
Giêsu: «Phúc thay những người không thấy mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta
hơn là cho các tông đồ. Tất cả
chúng ta chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy
Ngài sống lại. Nhưng chúng ta tin điều ấy.
Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời
chứng phải trả giá bằng máu, bằng mạng sống
của các tông đồ, là những người đã sống
với Đức Giêsu và đã chứng kiến Ngài sống
lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống
lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm
chứng» (Cv 2,32; x. 3,15; 4,33; 10,39.42;
13,31). Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng
một điều gian dối chẳng đem lại lợi
lộc gì cho mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin củng cố
đức tin cho con, đồng thời giúp con luôn thành thật
với niềm tin của mình. Đừng để cho con
trở nên giả dối: tin thì không mạnh, nhưng tuyên
xưng ngoài miệng thì rất là mạnh.
|