Vâng phục ngay cả chấp
nhận cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến
cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu,
là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh.
Qua biến cố này, Kitô hữu nhận
biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu
trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô
hữu.
I. Người Tôi Tớ
Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về
người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy
hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng
phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ
nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin
tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình
ảnh người tôi tớ Yavê được thấy
nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình
ảnh này được thấy thật rõ nét nơi
Đức Giêsu.
Đức Giêsu
không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và
Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài
bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến.
Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy
buồn đến chết được. Anh
em ở lại đây mà canh thức” (Mc.14, 33-34). Ngài
cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm
được mọi sự, xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm theo
điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn”
(Mc.14, 36).
Đức Giêsu
đã chia sẻ thân phận con người cho đến
cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia
sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến
độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con
người khi đứng trước cái chết luôn run
sợ. Đức Giêsu đã vượt
thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó
thác. Con người chỉ có thể an
bình trước cái chết với một niềm tin và phó
thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng
yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như
vậy, không có nghĩa những người không là Kitô
hữu không thể có cái chết an bình, trong trường
hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối
mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương
tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục
cho đến chết
Đức Giêsu
không chỉ là người. Ngài là Thiên
Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai
dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy
dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là
một” (Ga.10, 30), “không ai biết Cha trừ Con và những
người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này
phạm thượng. Ai có quyền tha tội
ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước khi có
Abraham, đã có Ta” (Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con
Người ngự bên hữu Đấng quyền năng
và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).
Không
những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm
sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay
“Thiên Chúa làm người.” Tất cả những
điều này hoàn toàn xa lạ với con người.
Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông
đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn
về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ
dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con
người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu
là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc
về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là
một (Ga.10, 30). Ngài có quyền tha
tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62).
Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan
viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời
vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô
viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa,
nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa”
(Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn
đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn
khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng
về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35), qua việc lấy Ý
Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34),
đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được
thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài
vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên
Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na,
không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài
vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên
Chúa.
III. Vạn tuế
Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho
thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân
chúng long trọng đón rước như một vị
vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và
sai gởi tới. Người ta trải áo
lót đường, chặt nhành cây trải lối
để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay
đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng
chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin
Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài
lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa”
(Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người
Do Thái không thể hiểu tại sao một người
lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên
khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý
thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn
cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng
tôi” (Mt.27, 25). Sự thật về Đức Giêsu
vượt quá sức hiểu biết của con
người. Chân tính của Đức Giêsu
không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái
chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì
đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập
thể. Chính vì vậy, họ không ngờ
rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu
cứ sống như Ngài là. Ngài làm
điều phải làm, nói điều phải nói.
Số phận Ngài nằm trong tay của
Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao
người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin
tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Đức Giêsu trở thành gương và
mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người
công chính phải đau khổ và phải chết?
2. Tại sao Đức Giêsu,
người công chính, bị hành hạ và phải chết ô
nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ
trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị
bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống
lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại
thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha
nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba
Ngài sẽ sống lại?
|