Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Giao Ước Mới – Lm. Đỗ Vân Lực
|
|
Chủ Nhật, Ngày 8 tháng 3-2015
|
AveMaria
Normal
AveMaria
1
1
2015-03-05T03:44:00Z
2015-03-05T03:45:00Z
1
1114
6353
52
14
7453
10.2625
Clean
MicrosoftInternetExplorer4
Giao ước mới – Lm.
Đỗ Vân Lực
Lời hứa có một ảnh
hưởng nào trong cuộc sống? Hôn ước cũng chỉ là
một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc
con người suốt đời. Thiên Chúa cũng bị
lời hứa ràng buộc. Giao ước
chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân
loại. Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt
lớn lao giữa Thiên Chúa và con
người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị
được xác định. Vì chữ
tín càng cao, con người càng được mọi
người kính nể. Chúng ta thử xem
Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong
khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ
tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước
với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ
cố đến với Môsê. Người
đã dẫn ông qua những nẻo đường,
đến tận núi Sinai để thiết lập giao
ước với dân tộc Do thái. Mười
Điều Răn chính là cách diễn tả cụ thể
giao ước đó (Faley 1994:244). “Mười
Điều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa trên
chúng ta” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp,
nhưng thăng tiến con người. Con
người chỉ thực sự thăng tiến khi
biết rõ mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha
nhân. Bởi vậy “ trước khi ban
Mười Điều Răn cho Israel, Thiên Chúa mạc khải
Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi
đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi
bước vào tương quan giao ước, nhờ
vậy có một căn tính mới” (Disciples in Mission, Homily
Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu
thương và trở thành người con đầu lòng
của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như
chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong
khi dân ngoại bơ vơ giữa
đủ thứ thần tượng. Nhờ
thực thi giao ước, họ sẽ chiếm
được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu
đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người
đến để thực hiện tất cả
những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là
vị Thần độc nhất. Đối với
Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong
thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ
Người là vị thần độc nhất, loại
trừ tất cả các thần khác là cả một
vấn đề. “Giới răn
thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm
tin độc thần trong thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối
dành cho một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần
ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ
Giavê. Xúc phạm tới đền thánh
tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền
thờ trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị
của toàn dân. Đó là biểu tượng của
niềm tin và hi vọng. Dân tộc trở
thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ.
Cộng đồng đó cần
được Thiên Chúa hướng dẫn về
Đất hứa.
“Mười Điều Răn
đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn
dân Do thái tới một cuộc sống thánh thiện trong
thực tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ
sẽ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch
Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm
hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng
nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có
trách nhiệm” (Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là cách
duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa
đối với dân Người.
Biểu tượng của tình
yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy
mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền
thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ
tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước.
Họ không cảm thấy gò bó hay miễn
cưỡng khi giữ luật vì đó là “phương
tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của
Thiên Chúa” (Life Application Study Bible 1991:136). Ngày
sabát là một bằng chứng. Chính vì
biến phương tiện thành mục đích,
người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí
nhất của lề luật. Nói khác,
khi không còn là phương tiện đạt mục đích
Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ hay đền
thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu
mới không ngần ngại nổi nóng với những
lạm dụng đền thờ, cản trở việc
thờ phượng.
Làm sao có thể tưởng tượng nổi một
Đấng “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29) lại có thể “lấy dây làm
roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với
chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của
những người đổi bạc, Người
đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế
ho.” (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó,
chắc chắn Người đã phải quát lên: “Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh
tẩy Đền Thờ làm Người hầu như quên
bản chất hiền lành của mình. Người
sẵn sàng vượt lên trên mức thường tình
để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn
muốn cho mọi người thấy mạc khải
lớn lao về bản chất đích
thực. Người chính là Đền
Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ vào
thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành động
của Đức Giêsu mang tính cánh chung,
thúc đẩy người Do thái thắc mắc về
tư cách Thiên sai của Người” (Ga 2:18) (Faley 1994:248). Thắc
mắc đó phải đợi sau cái chết và phục
sinh của Người được trả lời
thỏa đáng. “Đền Thờ
ấy sẽ được một thực tại mới
thay thế là Đức Kitô tràn đầy Thần khí”
(Faley 1994:248). Chính nơi Người,
Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống
động nhất. Người sẽ trở nên
trung tâm thu hút mọi người về
với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh,
Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung
nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong
“thần khí và sự thật” (4:23-24). Trước đó,
Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng
tỏ nơi Người, sự thật mới
đạt đến độ sâu sa
nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào
tận bản tính nhân loại (c.25; 1,47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn
thanh tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội
không được thanh tẩy, những hoạt
động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên
Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với
lỗi lầm quá khứ, những nghi lễ và luật
lệ rườm rà, nhiều người đã không
thể đến được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH Gioan Phaolô II
đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước
mắt toàn thể nhân loại. Giáo
hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh
Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội, không phải
để Giáo hội được nổi tiếng,
nhưng để mọi người nhận biết
Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga
14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi mọi
cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội nhìn
nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi “các
tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội
đã làm tổn thương đến sự hiệp
nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel,
các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng
đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các
tội chống lại phẩm giá của người
phụ nữ và sự hiệp nhất của loài
người, và các tội phạm đến các quyền
cơ bản của con người” (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi ấy mà
Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo
hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội
này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con
người đắc lực hơn. Mọi
người có thể dễ dàng đến với
Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo
hội. Nhân loại như bước
vào “thời gian hòa giải, thời gian cứu độ
cho tất cả mọi người tín hữu và cho
tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên
Chúa!” (ĐGH Gioan Phaolô II, “Ngày Xin Ơn Tha Thứ”, VietCatholic, 19/3/2000). Đức Giáo
Hoàng đã tô một nét son thật đậm vào lịch
sử Giáo hội. Các Giáo hội địa
phương cũng theo gương sáng
đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các
Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã xin
lỗi cả những người đống tính
luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác.
Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay
cá nhân về những lạm dụng tình dục của
một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law
tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô lệ
tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận
người Kitô hữu đã không cố sức cứu
người Do thái trong thời Đệ nhị thế
chiến (VietCatholic 19/3/2000).
geovisit();
try {var YWAGTracker = YWA.getTracker("10001849413879", "VSCALE4");YWAGTracker.setDocumentName("WPAGE");YWAGTracker.setDocumentGroup("YSBW");YWAGTracker.setCF(7, "kinhmungmaria.com");YWAGTracker.setCF(8, "w42");YWAGTracker.submit();} catch (eYWATCUnavailable) {}(function (d, w) {var x = d.getElementsByTagName('SCRIPT')[0];var f = function () {var s = d.createElement('SCRIPT');s.type = 'text/javascript';s.async = true;s.src = "//np.lexity.com/embed/YW/06ea2bb39ef2d115a1938709398a03dc?id=d1d8c120cf7f";x.parentNode.insertBefore(s, x);};w.attachEvent ? w.attachEvent('onload',f) :w.addEventListener('load',f,false);}(document, window));
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|