Đức
Giêsu bảo chứng tình yêu
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có nhiều tôn giáo tin
nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo
đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu
thương. Chính khi
nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận
biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng,
đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài
nhập thể làm người ở giữa con
người.
I.
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu đã cùng
với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên
trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói
gương mặt Đức Giêsu biến đổi
như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên,
người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy,
thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải
“ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu
Ước cũng đề cập đến gương
mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ
Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái
(Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích
gương mặt của Môsê được biến
đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa
Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất
đặc biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với
ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất
được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là
Con của Ngài, và là Đấng được yêu
đặc biệt. Thực ra, tước vị “con
Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ
nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7).
Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi
là người Con, được yêu đặc biệt;
tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa
thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục
sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu
vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận
mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người
như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì
Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy.
Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám
dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về
quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị
cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha
nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu,
nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không
phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do
để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự
do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến
tế con mình cho Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do
Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời
gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi
đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa
sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ
nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều
người. Abram đã tin và đã đi theo
lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn
cảnh của người thời đó, ta nhận ra
Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc
biệt. Thời đó người ta chưa
có luật lệ như hiện tại, người ta
phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo
vệ mình và tài sản khỏi bị người khác
đánh cướp. Thế mà Abram dám
rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và
vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác
tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều
đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ
mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống
mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi
tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một
người con tên là Isaac.
Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông
sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa
lại bảo ông đem người con duy nhất của
mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như
vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với
chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có,
mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa
được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và
phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham
cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có
thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ
cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng
chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối
nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông
trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4,
18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một
chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn
chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông
vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài
đã hứa.
III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài
Khi Đức Giêsu còn
tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập
thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và
với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ
lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên
mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo
một nghĩa thật đặc biệt. Một
khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật
đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại
hiểu biết về Thiên Chúa và về con người
một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được
Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên
Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như
thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một
người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra
con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như
vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con
của Ngài cho con người? Tại sao Thiên
Chúa tin con người đến độ như vậy?
Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên
Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên
Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin
được.
“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng
phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn
Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê
thảm trên thập giá, người ta có cảm
tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con
người hơn cả Đức Giêsu. Thật
ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người
hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho
thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban
Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta
nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả.
Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu
thương con người vô cùng!
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì
bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy
Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập
thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi
ngờ về đức tin không? (chẳng
hạn, không biết mình có sống lại thật không?
nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như
vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận
bảo vệ ý kiến của bạn.)
|