Cuối
đường hầm hay trên đỉnh núi?
(Suy
niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Với tốc độ 300.000 cây
số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những
miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có
thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa
biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn
rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì
thế, các ông đã xác định được
hướng sống và tìm được nền tảng
của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh
sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải
tất cả sự thật về Người. Sứ
mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về
ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm
ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng
kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi
sống trong giằng co bất tận giữa thực
tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn
đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng
cái thế thực hiện tất cả những giấc
mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế
Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và
bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt
khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn
đệ vào con đường hầm dầy đặc
bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe
lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu
muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang
đó. Người phải củng cố niềm tin các môn
đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn
chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân
trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ
tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định
dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm
một điểm mốc cho tương lai.
Núi
là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện.
Nhưng lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường
chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và
những cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical
Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi,
“Người biến đổi hình dạng trươc
mắt các ông. Y phục Người trở nên rực
rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian
giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3)
Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không
cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người.
Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong
niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng
tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi
chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây
bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật,
trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng
đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát
khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ
sẽ hiểu được lời Đức Giêsu
hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy
lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói
cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền
năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong
địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng
đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất
Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri
trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia
đã xuất hiện để củng cố và chiếu
sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của
Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan
Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây
ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông
Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7).
Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải
được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe
được tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu,
hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến
chừng nào! Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức
Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không
ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình
ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn
tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên
Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị
thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí.
Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa
cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết
thảy chúng ta” (Rm 8:32).
Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới
mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng
sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent
Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà
chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).
“Tiếng trong đám mây làm liên
tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị
Luật (18:15) sẽ
được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley
1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự
bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng
đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà
từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư
luận! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những
điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải
chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật.
Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ
cũng phải đối diện với sự thật.
Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến
hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông không biết phải
nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên.
Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời.
Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi
cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba
lều chỉ là một cách nói lên điều ông không
biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây
ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn
đệ “ngủ quên trên chiến thắng”. Ngay trên núi, sau
khi chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông đã
bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn
quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu
với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó.
Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông
lại phải tiếp tục nghe những điều
nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò
rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết
về số phận không thể tránh: “Người
phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê.” (Mc
9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức
Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày
biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao các ông quên
được lời phán từ đám mây: “Hãy vâng nghe
lời Người”. Nghe lời Người để tìm
đến sự sống, chứ không phải cái chết.
Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi
“Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9)
Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt
đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả
lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông
từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng
Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho
niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng
biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục
sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm
được ánh sáng biến hình, người ta có thể
ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức
Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho
các ông không được kể lại cho ai nghe những
điều vừa thấy, trừ khi Con Người
từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Trong ánh sáng
Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng
“nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp
để cứu độ dân Người.” (Fisichella
1995:669) Người chính là vị Thiên sai đến
thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa
hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế
giới, nhân loại vẫn còn sống trong những
đường hầm chật chội, tăm tối.
Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp
nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn
chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn
còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện
cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố
huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang
lại ơn cứu độ. Biến cố đó không
chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta
phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và
từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn
hoành hành”(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là
dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa
một xã hội đầy bạo động và sa
đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở
cuối đường hầm, nhưng chiếu toả
mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm
ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã
nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa
là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri:
Zenit 12/3/2003) đang
hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con
người và toàn thể vũ trụ.
|