Hỏi :
Xin cha cho biết ý kiến về vài việc sau đây:
1. có một số linh mục giảng trong lễ tang là
người này chắc chắn đã lên thiên Đàng rồi , Như vậy căn cứ vào đâu mà nói được
như thế ?
2. Lại có linh mục cứ nói Chúa rất nhân từ,
nên đừng lo sợ gì về phần rỗi của mình, vì Chúa Giê su đã chết thay cho
mọi người có tội rồi nên không còn gì phải lo sợ Chúa phạt ai nữa.
Điều
này có đúng như vậy hay không ?
Đáp :
1. Về câu hỏi thứ nhất, tôi đã có đôi
lần nói rõ là linh mục không bao giờ được phép biến lễ tang thành lễ
phong thánh cho ai ( canonization) vì không có giáo lý ,giáo luật nào cho phép
làm như vậy. Ai chết, kể cả các linh mục, giám mục, Hồng y và ngay cả Đức
Thánh Cha chết, thì Giáo Họi chỉ dạy phải cầu nguyện cho người quá
cố mà thôi , chứ không tức khắc tuyên bố ai đã lên Thiên Đàng
rồi nên khỏi cần cầu nguyện nữa.
Có phong thánh cho ai thì cũng phải có thời gian điều tra cũng như
đòi hỏi phải có một vài phép lạ mà người nào được hưởng nhờ cầu xin với
người đã qua đời, rồi Giáo Hội mới phong chân phước ( Blessed) trước khi phong
thánh.Nghĩa là phải qua nhiều thời gian điều tra theo giáo luật , nên từ xưa
đến nay, Giáo Hôi chưa bao giờ phong thánh tức khắc cho ai sau khi
người đó chết dù là Đức Thánh Cha.
Như vậy, khi giảng trong lễ tang của ai, linh mục nào nói là linh
hồn này đã lên Thiên Đàng rồi, là đã tự ý phóng đại, tự ý phong thánh cho người
kia mà không căn cứ vào giáo lý , giáo luật nào của Hội Thánh,- hay hơn nữa-
đã vượt quyền của Giáo Hội để tự ý phong thánh cho ai vì mục đích
đề cao người chết và làm vui lòng cho tang gia của người qua đời.
Lại nữa, nếu biết linh hồn của người chết đã lên Thiên Đàng rồi,
tức là đã gia nhập hàng ngũ các Thánh ở trên Trời , thì cần gì phải cầu nguyện
cho người ấy nữa ??? vì có giáo lý nào dạy phải cầu nguyện cho một
thánh nam hay thánh nữ nào đâu ? . các thánh nam nữ đang hưởng Thánh Nhan
Chúa Trên Thiên Đàng không cần ai cầu xin cho mình nữa. Ngược lại, các Thánh có
thể cầu bầu, tức là cầu xin Chúa cách đắc lực cho các tín hữu còn sống và cho
các linh hồn thánh đang được tinh luyện nơi Luyện tội.( Purgatory )
Như vậy, ai quả quyết rằng người này, người kia chết đã lên Thiên
Đàng rồi là đã tự ý phong thánh cho người ấy, bất chấp luật phong thánh
của Giáo Hội, gây ngộ nhận cho giáo dân về phần rỗi của ai mà chính mình cũng
không biết, nhưng cứ nói đại để làm vui lòng cho thân nhân người quá cố
mà xác còn đang nằm trong nhà thờ cho mọi người có mặt cầu nguyện .
Mọi linh mục đều phải hiểu rằng không ai có cách gì biết được Chúa
phán đoán ra sao cho một người đã ly trần. Ai chết thì phải cầu nguyện
cho họ, có thế thôi –kể cả cho những người tự tử chết hay chết đột ngột không
kịp được sức dầu và lãnh phép lành sau hết của Giáo Hội. Nghĩa là không ai có
thể phán đoán người này đã lên Thiên Đàng, người kia đã xuống hỏa ngục
rồi ,nên không cần cầu xin cho họ nữa.
Tóm lại, số phận đời đời của một người sau khi chết thì chỉ có
Chúa biết và phán đoán công mình, khoan dung cho người ấy mà thôi.
2.
Về
câu hỏi thứ hai, tôi xin được trả lời như sau:
Thiên Chúa là tình thương: đúng. Công nghiệp cứu chuộc của Chúa
Kitô
Là quá đủ cho con người được cứu rỗi : đúng.
Nhưng không phải vì Chúa quá nhân từ, vì công nghiệp của Chúa Kitô
là quá đủ, mà con người không cần phải làm gì nữa về phần mình.Hay nói rõ
hơn không thể coi đó như bảo đảm chắc chắn về phần rỗi của mình nên cứ tự
do sống theo ý riêng mà không cần đóng góp thiện chí cá nhân vào ơn cứu độ của
Chúa để sống theo đường lối của Người và xa tránh tội lỗi..
Trái lại, nếu không có thiện chí góp phần vào ơn cứu độ của Chúa
mà lấy cớ Chúa là tình thương, Chúa Kitô đã chết thay cho mình rồi,
nên cứ tự do sống và làm những việc trái với tình thương, công bằng và thánh
thiện của Chúa như oán thù, giết người, giết thai nhi, trộm cắp, gian tham ,
dâm ô thác loạn…thì chắc chắn Chúa không thể cứu người đó được.
Lý do là con người còn có ý muốn tự do ( free will) mà Thiên Chúa
luôn tôn trọng cho con người xử dụng.Nên nếu con người xử dụng tự do này mà
chối bỏ Thiên Chúa bằng chính đời sống của mình để phạm những tội nghịch
cùng Thiên Chúa mà không hề biết ăn năn sám hối, thì công nghiệp cứu chuộc của
Chúa Kitô sẽ trở nên vô ích cho ai chọn lối sống này. Nghĩa là Tình thương vô
biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô không thể áp
dụng cho những ai lợi dụng tình thương và công nghiệp này để sống theo “văn hóa
của sự chết” và chối bỏ Thiên Chúa bằng chính đời sống của mình.
Đó là lý do tại sao Chúa Giê su đã nói với một số người Do thái
đến hỏi Chúa xem có phải những người Ga-li-lê bị Tổng Trấn Phi-la-tô giết chết
và mười tám người khác bị thác Si-lô-a đổ xuống đè chết có phải vì họ tội lỗi
hơn những người khác hay không, Chúa đã trả lời họ như sau:
“ Tôi
bảo cho các ông biết: không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu
sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” ( Lc 12: 5 )
Như thế rõ
ràng cho thấy là tình thương và công nhiệp của Chúa không thể bao che cho tội
lỗi của con người, cố ý phạm vì lợi dụng tình thương tha thứ của Chúa và không
biết sám hối để xin tha thứ. Chính vì tội của con người mà Chúa Giêsu
phải vác thập giá đau khổ và chịu chết thay cho loài người tội lỗi. Nhưng
muốn được hưởng nhờ công nghiệp cứu chuộc đó, để sống hạnh phúc với Chúa
trên Nước Trời mai sau, thì nhất thiết đòi hỏi con người phải cộng tác với ơn
cứu chuộc của Chúa để xa tránh mọi tội lỗi, hay sám hối vì đã lỡ phạm tội, vì
Thiên Chúa chê ghét mọi tội lỗi còn đầy rẫy trong thế gian, trong bản tính yếu
đuối của con người và trong kế hoạch của Sa tan - kẻ thù cho phần rỗi của
mỗi người chúng ta- không bao giờ muốn cho ai được cứu rỗi, được bước đi
theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là Sự Thật và là sự Sống.” ( Ga 14 : 6)
Như vậy, không thể rao giảng tình thương của Chúa mà không nói đến
phần đóng góp của con người vào tình thương và ơn cứu độ của Chúa.
Đây là một khuyết điểm lớn của các giáo phái Tin Lành, là những
người chủ trương chỉ cần tin Chúa Kitô ( sola fe) là đủ cho con người được cứu
độ mà không cần phải làm gì thêm về phía con người. Đây cũng là khuyết điểm của
một số linh mục “mị giáo dân” bằng cách chỉ nói đến tình thương của Chúa mà
không nói đến phần đóng góp của con người vào tình thương đó.
Thực tế cho thấy là nếu miệng nói tin Chúa mà chân bước đi theo
thế gian để làm các sự dữ như thực trạng sống của con người ở khắp nơi trong
thế giới tục hóa ngày nay- đặc biệt là những kẻ đang buôn bán phụ nữ và trẻ em
cho bọn vô luân vô đạo đang đi tìm thú vui dâm ô và ấu dâm rất khốn nạn-
thì dù có tuyên xưng tin Chúa Kitô cả ngàn vạn lần thì cũng vô ích mà
thôi. Chắc chắn như vậy.
Câu hỏi “ lời nói phải đi đôi với việc làm” rất đúng cả về mặt tự
nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng. Trong mọi giao thiệp với người
khác, ai chỉ nói hay, nói hấp dẫn, nhưng không có việc làm cụ thể để
chứng mình thì chắc chắn không thuyết phục được ai tin lời mình nói. Cũng vậy,
tuyên xưng lòng tin có Chúa mà đời sống lại đi ngược với niềm tin ấy, thì sẽ
không giúp ích gì cho phần rỗi của mình và cũng không thuyết phục được ai
tin Chúa nữa vì gương sống phản chứng của mình.
Tóm lại, rao giảng tình thương vô biên của Chúa là cần thiết, la
đúng. nhưng sẽ thiếu sót nếu chỉ nói đến tình thương của Chúa mà
không nói đến phần đóng góp cá nhân của con người vào tình thương ấy để không
lợi dụng tình thương của Chúa mà sống thù nghich với lòng nhân hậu và tha
thứ của Chúa như thực trạng của biết bao con người trong thế giới tục hóa ngày
nay.
Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
|