Phép Lạ Tình Yêu
Lời Ngỏ:
Mến gởi vào tay bạn một mẩu chuyện nhỏ nhưng có thật và vẫn còn tiếp diễn. Câu chuyện ấy được bắt đầu từ một con người mang tên Giêsu, và Người ấy dám yêu và hy sinh chết vì yêu. Ngài là một Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình và sống kiếp phàm nhân. Ngài đã từ bỏ trời cao để đi vào lòng đời nơi dương thế. Ngài đã để lại những dấu ấn tình yêu trên khắp các nẻo đường cuộc sống, và Ngài đã cống hiến Thân Mình để làm giá cứu chuộc muôn dân. Ngài đã yêu tất cả mọi người, mọi tầng lớp, và mọi sắc tộc trong mọi thời đại. Ngài đã đi gieo rắc Tin Mừng, đã tuyển chọn Môn Đệ, đã xây dựng Giáo Hội, và thiết lập Các Bí Tích. Với tình yêu cao cả, Ngài đã hạ mình rửa chân cho các đầy tớ, đã trở thành tội nhân, đã trao thân chịu khổ hình và chết trên Cây Thập Giá. Ngài đã được tẩm liệm trong khăn và chôn cất trong mồ; thế nhưng, Ngài đã chỗi dậy, đã sống lại, và đã hiện ra với các Môn Đệ. Nhiều người đã thấy và đã tin. Mãi cho đến hôm nay sau biến cố lịch sử ấy, tuy đã hơn 20 thế kỷ, nghĩa là đã hơn 2000 năm, nhưng Ngài vẫn còn sống. Ngài vẫn đang Hiện Diện và chính mắt tôi đã được nhìn thấy Ngài, đã tiếp cận với Ngài, đã tâm sự với Ngài, và hôm nay kể lại cho bạn nghe một câu chuyện về Ngài. Nếu như bạn có duyên, có cảm tình, và có chút tò mò muốn biết, xin mời bạn hãy cùng tôi đến gặp Ngài!
(Câu chuyện này được chuyển dịch dựa trên cốt truyện từ bản văn gốc bằng Tiếng Anh do chính tác giả viết và đã được in trên các tờ thông tin, trang mạng; tuy nhiên, bài viết này được cộng thêm nhiều điều mới lạ bởi vì tác giả tìm được sức mạnh và nguồn cảm hứng từ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Nếu như bạn có dịp đọc cả hai bản văn, xin bạn đừng ngạc nhiên khi thấy bản văn gốc không có nhiều chi tiết bởi vì tác giả tự biết khả năng của mình có giới hạn. Mong bạn thông cảm và vui lòng bỏ qua. Mến chúc bạn tìm được những giây phút thanh thản, bình an trong Chúa, và lạc quan yêu đời.)
Trước khi bạn bắt đầu câu truyện, xin mời bạn hãy nhìn vào tấm hình này, một Tấm Bánh trắng tinh có hình Đấng Cứu Thế, để bạn nhìn xem coi bạn có thấy Gương Mặt của Ngài không nhé.
Bạn hãy nhìn cho kỹ và hãy chú tâm vào đó. Nếu như bạn không nhìn thấy thì bạn cũng đừng thất vọng, đừng buồn chán, và đừng nản chí bởi vì Ngài sẽ chẳng đi đâu, và Ngài sẽ còn mãi ở đó. Điều này có nghĩa là bạn hãy thường xuyên quay lại Nhà Chầu, hãy tiếp tục nhìn ngắm, hãy chăm chỉ nguyện cầu, hãy cúi đầu cầu xin, và với niềm tin Chúa sẽ mở mắt tâm hồn bạn, và lúc đó bạn sẽ nhận ra Ngài và tất cả sự thật. Nếu như bạn đã nhìn thấy Ngài thì xin chúc mừng cho bạn bởi vì bạn đã có duyên và được Ngài mời gọi. Hãy tiếp tục đến với Ngài để bày tỏ lòng yêu mến, tri ân, và sự cảm tạ!
Ngày xửa ngày xưa, cách đây vài chục năm, khi dân số Việt Nam vẫn còn thưa thớt, đất đai còn trù phú, và sông nước còn dày đặc các loại cá tôm, tôi đã được sinh ra và lớn lên ở một miền đồng quê hẻo lánh, nằm bên cạnh một con sông thuộc Huyện Phụng Hiệp, Tỉnh Cần Thơ. Với tất cả tuổi ấu thơ, tôi chỉ biết đến cuộc sống của những người nông dân chân lấm tay bùn, và hình như người dân cần cù ở làng tôi chẳng bao giờ rời khỏi miền quê đi lên thành thị, vì nghèo khổ, túng thiếu. Khoảng năm 12 tuổi tôi được cơ hội đi lên thành phố thăm người thân, và trong một đêm tối trời, đang khi ngồi phụ bán ốc luộc ở một góc phố Sài Gòn, Chú rể của tôi tên Thịnh đã cầm lấy tay tôi, xem đi xem lại, và sau đó với nét mặt đăm chiêu, Chú gật gù nói với tôi vài ý thế này: “Cháu là một đứa trẻ thông minh, và đường học của cháu còn đi rất dài và tiến rất xa. Cháu sẽ thi đậu Tiến Sĩ hoặc Phó Tiến Sĩ; tuy nhiên, cháu sẽ không thể nào nổi tiếng bởi vì cháu sẽ luôn bị người khác ngăn cản, phá hoại, và khi phải đối diện với bất cứ vấn đề gì thì cháu cũng phải trải qua hai lần. Nhưng có một điều Chú muốn cháu ghi nhớ là khi cháu 40 tuổi thì cuộc đời của cháu sẽ thay đổi. Tới lúc đó cháu sẽ trở nên giàu có, sẽ có đầy đủ mọi sự, và cuộc sống sẽ an nhàn.” Những câu nói này thực ra chỉ là những lời suy đoán bình thường của con người; tuy nhiên, nó đã nằm sâu trong ký ức tôi suốt bao năm tháng. Cứ mỗi lần đời tôi gặp sóng gió hay mỗi khi bị thất bại, tôi lại nghĩ ngay đến những lời tiên đoán vàng ngọc này, rồi sau đó tự an ủi mình và cho đó là duyên kiếp, là số phận.
Năm 1988, khi tuổi đời mới 17 tôi được móc lối, và bố mẹ đã chỉ lối để tôi có cơ hội xuống tàu tìm đường vượt biên. Nhờ Chúa đã dẫn dắt và bảo vệ nên con tàu của tôi; tuy rằng nó đã gặp đại nạn, phải lênh đênh giữa mù khơi bão tố, nhưng nó đã đến được bến bờ tự do, đó là Hòn Đảo Bidong ở Malaysia. Sau gần một năm trời sống ở trại Tị Nan, tôi được Mỹ thâu nhận và cho phép đến Hoa Kỳ định cư lúc vừa tròn 18. Sau khi đã có nơi ăn chốn ở, bảo trợ bởi những người Công Giáo nhân đạo trong Hội Từ Thiện, tôi lại được cắp sách đến trường để tiếp tục con đường học vấn, bắt đầu lớp 11 ở Trường Trung Học, sau đó lên 4 năm Đại Học, và ra trường sau 4 năm Cao Học. Trong khoảng thời gian đó, tôi cũng đã đáp lại tiếng Chúa Gọi bằng cách đăng ký vào Chủng Viện đi tu. Sau đó tôi trở thành Linh Mục lúc 28 tuổi, và vào thời điểm đó, Giáo Hội cũng đang hân hoan Mừng Năm Thánh 2000! Trong sứ vụ Linh Mục, tôi đã phục vụ đoàn chiên của Chúa rải rác khắp nơi, và theo năm tháng sứ vụ của tôi đã lướt trôi như dòng nước; tuy nhiên, sông có khúc và nước có lúc. Vì thế, đời sống Linh Mục của tôi cũng lên xuống như nước thủy triều, nhưng có một điều tôi vẫn phải cảm tạ ơn Chúa bởi vì Chúa đã hết mực yêu thương tôi, và Ngài đã gìn giữ tôi trong Thiên Chức Linh Mục kể từ ngày tôi được thụ phong cho đến ngày mừng sinh nhật thứ 40!
Người ta thường nói rằng: “Khi bước vào tuổi 40 thì đời người bắt đầu tụt dốc.” Ý nói rằng: Khi tới tuổi 40 thì sức khỏe, ý chí, và nghị lực của con người bắt đầu suy giảm. Tuy nhiên, đối với tôi thì câu nói này lại có ý nghĩa khác biệt bởi vì khi bước vào tuổi 40 thì đời sống tâm linh của tôi lại bắt đầu gia tăng, và ngay cả đời sống sinh hoạt hằng ngày của tôi cũng luôn thăng tiến. Một sự kiện rất quan trọng đã làm thay đổi tất cả mọi sự trong cuộc đời của tôi, và tôi không ngần ngại kể lại cho bạn nghe về một sự kiện lạ, Một Phép Lạ Thánh Thể, và Phép Lạ cả thể ấy lại xảy ra vào ngay cái đêm mừng sinh nhật thứ 40 của tôi! Đã vài năm trôi qua, nhưng tôi vẫn còn lưu luyến cái đêm sinh nhật huyền diệu ấy, và tôi sẽ không bao giờ sợ hãi khi phải làm chứng về Phép Lạ đó. Cho đến hôm nay, biến cố lạ thường ấy vẫn còn in nét sâu đậm trong tâm trí và linh hồn của tôi, và tôi vẫn phải khẳng định rằng: “Món quà vĩ đại nhất, tuyệt hảo nhất, và linh thiêng nhất mà tôi đã nhận trong dịp mừng sinh nhật thứ 40 là tôi được diễm phúc diện kiến Thiên Nhan Chúa, và chính mắt tôi đã nhìn thấy Gương Mặt Chúa Giêsu hiện ra trong Mình Thánh.”
Phép Lạ ấy xảy ra đêm Thứ Sáu, ngày 19, tháng 11, năm 2011, trong lúc chỉ có một mình tôi quỳ gối cầu nguyện trước diệu quang có đặt Mình Thánh Chúa ở trong một nhà nguyện nhỏ, thuộc Giáo Xứ Thánh Phêrô Tông Đồ, Thành Phố Savannah, Tiểu Bang Georgia, Hoa Kỳ. Cũng như mọi khi, tôi chỉ biết chạy đến với Chúa khi đời gặp u phiền, và nhất là mỗi khi có biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc sống. Hôm nay, tuy là đêm mừng sinh nhật thứ 40, và thay vì đi party, uống bia, ăn mừng thì tôi lại đến bên Chúa để than thở và tâm sự. 30 phút cầu nguyện đầu tiên diễn tiến rất bình thường, chẳng có gì ngạc nhiên, chẳng có chi khác biệt. Lúc ấy, tôi chỉ biết quỳ gối thinh lặng trước Nhan Thánh Chúa, và mắt cứ đăm chiêu nhìn vào Tấm Bánh trắng tinh bao bọc bởi ánh hào quang, được đặt ngay giữa hai ngọn nến đang lung linh chiếu sáng. Sau đó, tôi ngồi lên ghế lần chuỗi mân côi, cầu nguyện, và xin Chúa cho tôi một quả tim mới bởi vì đời sống linh mục và sự phục vụ của tôi đã rơi tới đáy vực thẳm, không còn đường đi, không còn lối thoát. Vì thế, tôi rất cần sự trợ giúp của Chúa, và nhất là xin Chúa ban cho tôi một thần khí mới, một động lực mới, và một hướng đi mới để tôi bắt đầu một quảng đời mới; hơn nữa, lúc đó, câu Kinh Thánh quen thuộc của Tiên Tri Ê-zê-ki-en cứ lập đi lập lại trong tâm trí tôi, và ý nghĩa của nó nói cứ lẩn vẩn thôi thúc trong đáy lòng tôi:
“Ta sẽ ban tặng con một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng con.
Ta sẽ vất bỏ đi quả tim chai đá, và sẽ ban cho con quả tim bằng thịt” (Ez 36:26).
Trong khoảng khắc linh thiêng huyền nhiệm ấy, tôi bắt đầu nhìn thấy Gương Mặt Chúa Giêsu hiện ra rất to và rõ nét ngay giữa Tấm Bánh, và đôi mắt Chúa mở to nhìn thẳng vào tôi. Sự xuất hiện đột ngột của Chúa cũng chính là lúc tôi nhận được quả tim mới bởi vì ngay lúc ấy tâm hồn tôi hân hoan, và thần trí tôi nhảy mừng. Tôi rất đỗi vui mừng và hạnh phúc vì được nhìn thấy Chúa. Kể từ giờ phút ấy, quả tim mới của tôi đã không ngừng reo vui hoan hỷ, và nó chỉ biết nhảy tung tăng, đập loạn xạ như những tiếng chuông đang rung lắc và nhảy múa. Cũng trong giây phút thiêng liêng ấy, tôi chăm chú nhìn vào Gương Mặt Chúa Giêsu, một Gương Mặt trái xoan, rất cân đối. Khuôn mặt của Ngài giống như hình ảnh được in ra từ Tấm Khăn Liệm ở Rôma. Điều này cũng minh chứng rằng: “Tấm Khăn Liệm Thành Turin” là thật và là một bảo vật chính gốc. Ngài có đôi mắt to, và mắt phải nằm cách xa sống mũi hơn mắt bên trái. Ngài có sống mũi cao, nhưng đoạn ở giữa hình như bị gãy, hơi bị uốn cong qua phía trái. Ngài có đôi môi cân xứng, rất đều và dày. Ngài có mái tóc dài, có râu, có cằm thon và gọn gàng. Khi nhìn thấy Gương Mặt Chúa Giêsu như vậy tôi mới khen Chúa thế này:
“Chúa ơi, Chúa quá đẹp trai lại rất phong độ!
Xin Chúa cứ đứng yên, đừng di chuyển, đừng cử động,
để cho phép con chụp tấm hình làm kỷ niệm.”
Không thấy Chúa phản hồi hay từ chối cho nên tôi suy đoán là Chúa đã đồng ý và cho phép tôi chụp hình. Thật sự lúc đó tôi quá đỗi vui mừng, chỉ muốn lấy máy ảnh ra chụp ngay, chụp gấp, vì sợ Chúa biến mất bất cứ lúc nào. Hơn nữa, lúc đó tôi nghĩ ngay đến việc giữ lại cho mình một vật thể để làm bằng chứng, và chứng minh điều mình nói là sự thật để người khác cũng tin. Thú thật với bạn là trong quảng đời vừa qua, nhất là trong mấy năm trở lại đây, quan hệ mật thiết giữa tôi với Chúa có phần nhạt nhẽo, thờ ơ, nguội lạnh, và không được mặn nồng cho lắm. Tôi không chuyên cần trong việc cầu nguyện và trò truyện với Chúa cho nên khi được tiếp cận với Chúa, tôi không nhận ra giọng nói, không quen biết tiếng Chúa, không hiểu được Thánh Ý, và cho dù hôm đó Chúa có trả lời: “Có” hay “Không” đi nữa thì tôi cũng không thể nào biết được; vì thế, tôi cứ liều mình lấy máy ảnh ra chụp đại, không cần biết chuyện gì sẽ xảy ra và kết quả sẽ ra sao. Tôi đã chụp hình, chụp tới tấp, chụp liên tục, đủ cách, đủ kiểu, hầu ghi khắc lại hình ảnh Gương Mặt tuyệt vời của Chúa! Điều mà nhiều người vẫn thường hay thắc mắc là tại sao lúc đó tôi lại có sẵn máy ảnh trong túi như vậy. Xin thưa là vào thời điểm đó, máy chụp hình loại Digital vừa mới phát hành và bán rộng rãi trên toàn quốc, rất đơn giản và thuận tiện cho việc sử dụng, cho nên rất thịnh hành; hơn nữa, lúc đó tôi cũng vừa mới mua một cái, loại nhỏ để bỏ túi, cho nên đi đâu tôi cũng mang theo, đi đâu cũng chụp hình, và tôi đã sử dụng nó để ghi lại hình ảnh Gương Mặt của Chúa mà chính mắt tôi đã trông thấy.
Ngay tối hôm ấy tôi đã chụp liên tục vài chục tấm hình từ nhiều góc độ, khía cạnh, và thể loại. May mắn thay, Chúa đã cho phép tôi được giữ lại trong máy hình ảnh của Ngài, và trong số những tấm hình đó tôi thấy có một tấm rất tuyệt vời. Lời diễn tả về Gương Mặt của Chúa bằng ngôn từ và lời nói sẽ không thể nào làm thỏa mãn được sự hiếu kỳ của người nghe, không giúp họ hình dung ra sắc diện hoàn hảo của Chúa, và chắc chắn hình ảnh trong trí óc phỏng đoán của họ sẽ không thể sánh với hình ảnh mà chính mắt họ được nhìn thấy bởi vì “Tai nghe không bằng mắt thấy.” Tạ ơn Chúa đã ban cho tôi một tấm hình mà người xem có thể chiêm ngưỡng Long Nhan Thiên Chúa, có thể nhìn thấy Mặt Chúa, và qua đó thấy rõ một phép lạ được diễn tả qua nhiều chi tiết xuất hiện trên khuôn mặt. Sau khi đã chụp nhiều hình, tôi lần lượt kiểm tra và xem qua những tấm đã chụp. Khi biết chắc là Hình Ảnh Mặt Chúa đã được trữ lại trong bộ nhớ, tôi mới yên tâm tắt máy và bỏ nó vào túi như một bảo vật. Sau đó, tôi quỳ gối tạ ơn Chúa đã cho tôi cơ hội được diện kiến Thiên Nhan Chúa, mặc dù đó chỉ là một thoáng giây ngắn ngủi, nhưng tôi đã mãn nguyện bởi vì tôi đã được nhìn thấy Chúa. Sau đó tôi mang Mình Thánh Chúa cất vào Nhà Tạm, bái chào, và từ giã Chúa trước khi ra về. Trên đoạn đường ngắn từ nhà thờ trở về nhà xứ, lòng tôi cứ băn khoăn tự hỏi: “Không biết ngày mai sẽ ra sao, và chuyện gì sẽ tiếp diễn?” Thực ra, cả đêm hôm ấy tôi không thể nào ngủ được bởi vì thần khí Chúa đã thấm nhập và bắt đầu hoạt động trong trái tim tôi. Tuy có đôi lúc tôi nhắm mắt nhưng sức mạnh ký ức luôn bắt tôi tỉnh thức bởi vì hồn tôi quá sướng vui, và đầu óc tôi cứ liên tưởng đến những sự kiện vừa xảy ra, nhất là Gương Mặt của Chúa hiện ra trong Mình Thánh. Tôi biết đây không phải là chuyện đơn giản, nhưng là một Phép Lạ mà chính mắt tôi đã được chứng kiến. Không biết việc Chúa vừa thực hiện có mục đích gì, và thánh ý của Chúa sẽ được biểu lộ ra sao?
Thật ra lúc đó tôi cũng chưa hiểu rõ Phép Lạ này chỉ dành riêng cho cá nhân tôi hay cho cộng đồng thế giới, và biến cố này chỉ xảy ra một lần hay còn tiếp tục ngày mai và kéo dài đến tương lai mãi mãi? Tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Sự kiện Chúa hiện ra trong Mình Thánh là vì Tấm Bánh hay vì Nơi Thánh? Không biết khi trở lại nơi ấy, Chúa có còn hiện ra để cho tôi được thấy nữa không? Và nếu như câu trả lời là “Có” thì Chúa sẽ ở đó cho đến bao giờ? Nếu như sáng ngày mai khi trở lại thăm viếng mà Chúa vẫn còn ở đó, và tôi vẫn được diễm phúc nhìn thấy Chúa thì lúc ấy tôi sẽ nói gì để Chúa vui lòng? Tôi sẽ bày tỏ cảm xúc thế nào và đối đáp ra sao khi ở trước Mặt Chúa? Khi được tiếp kiến đối diện với Chúa thì tôi phải đứng thẳng khoanh tay, hay quỳ gối cúi đầu? Lúc đó tôi sẽ xin Chúa điều gì và xin bao nhiêu thì mới đủ? Chủ đích tôi đến gặp Chúa là vì lý do gì và tại sao?
Bao nhiêu ý nghĩ viễn vông như không định hướng cứ tiếp tục sinh sôi nảy nở trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành nguồn vui cho tôi. Càng về khuya thì đầu óc tôi càng suy nghĩ, và thậm chí thần khí Chúa trong tôi ngày càng thôi thúc và càng lúc càng êm dịu ngọt ngào. Từ khi được nhìn thấy Mặt Chúa, trái tim tôi không ngừng nhảy múa reo vui, và lúc đó tôi có cảm giác như nó đang rung lên những Hồi Chuông Noel rộn rã, và những điệu nhạc ngân vang đang vui nhộn trong tâm hồn. Mỗi khi cung nhạc ấy được cất lên thì tâm trạng của tôi càng thấy sung sướng, giống như quả tim đang được xoa bóp một cách thoải mái, êm ái, và dịu dàng. Hơn nữa, tôi còn nhận thấy trái tim của tôi chỉ bắt đầu nhảy múa khi tôi ngồi đọc kinh cầu nguyện, và từ đó tôi tình cờ phát hiện ra sự reo vui rung động của con tim gắn liền với đời sống cầu nguyện. Kể từ phút giây đó tôi bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn, gia tăng cả số lượng lẫn chất lượng, cả số lần lẫn số giờ bởi vì tôi không muốn trái tim đang reo vui bỗng dưng ngưng hoạt động, nhưng muốn nó tiếp tục rung lên những hồi chuông vui mừng hạnh phúc. Hơn nữa, tôi cũng không muốn đời sống cầu nguyện của tôi bị gián đoạn từng khúc, nghĩa là lúc có lúc không, nhưng tôi muốn nó được liên tục tung hô Chúa, được vui sống bên Chúa, và được gần gũi với Chúa để Chúa luôn ủi an và ban nhiều nguồn vui ân phúc. Đang lúc tôi say mê hạnh phúc thì cũng tới lúc tiếng chuông đồng hồ báo thức, và sự rạo rực ban mai đã kéo tôi ra khỏi giường để lên đường thăm viếng Chúa.
Với tấm lòng thao thức và hăng say, tôi đã quay trở lại nhà chầu ngay sau đó, và hôm đó là sáng Thứ Bảy, ngày 20 tháng 11, cũng là sinh nhật của tôi. Sau khi vào tới nhà nguyện, tôi liền đặt Mình Thánh Chúa để chầu, và chỉ trong vài phút đầu tiên tôi đã nhìn thấy Chúa xuất hiện trong Hình Bánh hay còn gọi là Mình Thánh. Có lẽ Chúa vẫn luôn ở đó để chờ đợi tôi. Chúa vẫn còn ở đó và ngó thẳng vào tôi, và tôi cũng đăm chiêu nhìn ngắm Chúa trong những khoảng khắc linh thiêng ấy. Thật ra, tôi đã sớm nhận ra Gương Mặt thánh thiện của Chúa bởi vì Chúa đã yêu mến tôi, và Ngài muốn cho tôi được nhìn thấy Chúa. Sự xuất hiện của Chúa trong Tấm Bánh cũng có nghĩa là Chúa đang hiện diện trong Mình Thánh. Với tất cả sự quý mến, tôi tiến đến gần Chúa với cự ly không quá 1 gang tay để say xưa nhìn ngắm Chúa như một người đang yêu say đắm. Tôi đã tỉ mỉ quan sát và nhận thấy rằng: Gương Mặt của Chúa sáng nay cũng giống như Hình Ảnh Mặt Chúa mà tôi đã thấy đêm qua. Nét Mặt của Chúa không một chút thay đổi, và có lẽ sẽ không bao giờ thay đổi bởi vì Bản Chất Thiên Tính của Chúa là trung thành và thánh thiện. Hơn nữa, Chúa rất quảng đại trong việc cho đi, và điều đó có nghĩa là khi Chúa đã ban tặng món quà gì thì Ngài sẽ không lấy lại. Vì thế, tôi đã không ngần ngại hoặc ái ngại gì về Hình Ảnh Mặt Chúa bởi vì đó là món quà mà Chúa đã tặng ban. Ngài sẽ không đòi lại, không thay đổi ý định, và Hình Ảnh ấy sẽ mãi mãi in đặm trên Tấm Bánh và nằm sâu trong Mình Thánh.
Đó cũng là lý do tại sao tôi không thấy bất kỳ một sự thay đổi nào trên khuôn mặt của Chúa, và tôi cũng không thấy có điểm nào khác lạ so với những ấn tượng đã được khắc ghi trong ký ức của tôi. Điều đáng nói ở đây là trên Gương Mặt của Chúa, không có một chi tiết nào mới lạ, nghĩa là không thêm son bớt phấn, không đeo kiếng quấn khăn, không bông tai đội mũ, và chủ ý của Chúa là muốn tôi dễ dàng nhận ra Chúa, nhận ra Gương Mặt Giêsu, một Con Người mà không thể nào bị nhầm lẫn với người khác. Cũng giống như Hình Ảnh đêm qua, Ngài đã hiện ra ở cùng một góc độ, cùng khía cạnh, và cùng kích thước trên hình bánh. Mắt Ngài vẫn mở to và nhìn thẳng. Môi miệng Ngài rất thản nhiên, không cười không nói, và tôi cũng không thấy Ngài chuyển động, chợp mắt, hoặc nhắp môi, cũng không nghe thấy bất kỳ một âm thanh nào thoát ra từ môi miệng của Ngài. Thật ra lúc đó tôi cũng không biết được Chúa có nói gì hay không bởi vì cho tới thời điểm đó, sự đàm thoại giữa tôi với Chúa rất hạn hẹp, nghĩa là chỉ có một chiều, và điều này cũng có nghĩa là: Chúa nói Chúa nghe, còn tôi hiểu sao thì hiểu. Hơn nữa, lúc đó tôi cũng chưa biết phải làm cách nào để giao duyên trò truyện với Chúa, càng không biết phải làm thế nào để tiếp thu và đối thoại. Tuy thế, tôi vẫn âm thầm nguyện ước và thành tâm xin Chúa chỉ dạy để tôi có khả năng giao tiếp với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa, hiểu được giọng nói, biết được thánh ý, và đáp lại những điều Chúa mong muốn.
Trở lại Nhà Nguyện để chiêm ngắm Mặt Chúa là nguyên nhân duy nhất đã thúc đẩy tôi quay lại Nhà Chầu hết lần này đến lần khác, cả buổi sáng lẫn buổi chiều, và ngày qua ngày mỗi khi có thời gian rảnh rỗi ngoài công việc mục vụ ở giáo xứ, tôi lại đến Nhà Chầu để hầu cận Chúa bởi vì tôi ham muốn được gặp Chúa, nhìn thấy Chúa, và chiêm ngưỡng Thiên Nhan Chúa. Tuy tôi chỉ mới nhìn thấy Chúa có một lần đêm qua, nhưng tôi đã thương nhớ Chúa vô cùng bởi vì Gương Mặt Chúa đã khắc sâu trong tâm trí tôi, và ánh mắt Chúa nhìn đã làm rung động tim tôi và trở nên nguồn cảm hứng cho tôi. Hơn nữa, Gương Mặt huyền nhiệm ấy còn có sự thu hút, có sức thuyết phục, làm cho tâm trí tôi không thể dễ quên, nhưng luôn nhớ đến Ngài từng giây từng phút. Cảm nghiệm thiêng liêng ấy đã cho tôi biết Chúa rất yêu tôi. Chính Ngài đã chinh phục tôi, và tình yêu của Ngài đã cảm hóa trái tim tôi. Linh hồn tôi cũng đã nhận ra sự Hiện Diện của Chúa, và tôi cũng không còn hoài nghi về sự Hiện Hữu của Ngài.
Đức Kitô là một con người thật, một Thiên Chúa Hằng Sống,
đã cống hiến Thân Mình trên Thánh Giá,
đã Hóa Thân trong Hình Bánh,
và giờ đây đang Hiện Diện trong Mình Thánh.
Quả thật, Ngài đã hiện ra trong Hình Bánh,và
chính mắt tôi đã nhìn thấy Ngài trong Mình Thánh.
Cho đến bây giờ tôi vẫn không sao quên được những cảm giác xuyến xao rung động vào cái đêm đầu tiên. Sau khi đã lên giường tắt đèn và nằm im vài canh giờ, lòng tôi cứ bồi hồi thao thức chỉ mong trời mau sáng để ánh bình minh đưa tôi đến gặp Chúa. Không hiểu vì sao lúc đó trái tim tôi lại quá rạo rực thổn thức, và lòng đầy nhiệt huyết cuồng say. Ngay lúc ấy, tuy là giữa đêm khuya, nhưng tôi chỉ muốn chỗi dậy để đến gặp Chúa, giống như người đang say mê điên dại vì tình, nhất là lúc mình đang yêu và được yêu. Chính lúc ấy, tôi rất muốn đến gặp Chúa, kề cận bên Chúa, tâm sự với Chúa, và yêu mến Chúa, vì tôi biết Chúa rất yêu tôi. Ngài đã cho tôi chỗi dậy từ bụi đất, đã cất tôi lên khỏi chốn bùn nhơ, và giờ đây lại cho tôi được sống như giấc mơ. Nên nhớ là ở thời điểm này, chỉ vài chục canh giờ sau khi được nhìn thấy Mặt Chúa, trái tim của tôi không ngừng reo vui nhảy múa vì được Chúa đoái thương; tuy nhiên, nó chỉ biết đập loạn xạ và không có định hướng. Hiện tượng kỳ lạ này kéo dài suốt 3 ngày đêm, và nó chỉ xảy ra mỗi khi tôi ngồi đọc kinh cầu nguyện, nhất là khi nói chuyện với Chúa bất kể là lúc nào, ở bất cứ nơi đâu, dù đó là Nhà Nguyện hay nhà xứ, chỗ riêng tư hay chỗ đông người. Điều đáng nói ở đây là khi ấy, tôi cảm thấy mình cần Chúa, và tôi muốn được gần bên Chúa, yêu Chúa. Có lẽ, tôi sẽ không thể nào diễn tả cho bạn hiểu về sự thay đổi nội tâm, sự âm thầm hướng thiện, và những hiện tượng lạ thường của con tim, chỉ biết rằng nó êm ái ngọt ngào, bao dung, và sung sướng. Chúa đã thương mến tôi và còn cho tôi được toại nguyện, nghĩa là Ngài đã ban cho tôi một quả tim mới theo như ý tôi xin; tuy nhiên, với sự suy nghĩ không tường tận, không trưởng thành, và thiếu sự chín chắn đắn đo, tôi chỉ biết “xin cái mới,” nhưng lại xin không tới nơi tới chốn, nghĩa là tôi đã quá vội vàng mà vô tình bỏ qua ý chỉ quan trọng nhất, đó là: tôi đã quên ngỏ lời để mời Chúa ngự vào trong trái tim tôi, và ở lại mãi trong tâm hồn tôi. Từ đáy tim thẳm sâu tôi nhận biết rằng: Nếu không có Chúa nâng đỡ thì linh hồn tôi sẽ không tồn tại và sẽ chẳng đi đến đâu. Hơn nữa, tôi cũng hiểu rằng: Nếu không có Thần Khí Chúa tác động thì trái tim tôi sẽ mau nguội lạnh và sẽ chẳng bao giờ biết yêu, và dĩ nhiên nếu không có hiện diện của Chúa thì quả tim tôi sẽ héo khô, trở thành hư vô, và cô đơn hiu quạnh. Thành thử ra tôi đã quá thiếu sót, đã trót dại, đã xin sai nên tôi phải làm lại từ đầu; vì thế, tôi đã trở lại Nhà Chầu quỳ gối trước Mặt Chúa và thỏ thẻ thưa với Chúa rằng:
Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời con khẩn nguyện,
và đã khoan hồng rộng lượng cho con một quả tim mới.
Với tất cả trái tim, con xin hết lòng tri ân cám tạ vì món quà mà Chúa đã thương ban;
thế nhưng, với sự ngu muội và yếu đuối,
con đã quên mời Chúa ở lại với con và sống mãi trong con,
để Chúa cùng đồng hành với con, là nguồn vui cho con, và là hy vọng của con.
Vì thế, giờ đây thân lạy Chúa,
con không chỉ xin Chúa hãy tiếp tục giữ nguyên món quà đã tặng lúc ban đầu là quả tim mới,
nhưng con còn mạo muội xin Chúa hãy vui lòng ở lại trong trái tim con,
để Chúa và con không còn xa cách, không bị ngăn cách, và không tách rời nhau,
để con được ở gần bên Chúa, yêu mến Chúa, yêu như Chúa,
và để tình Chúa trong con sẽ luôn còn mãi.
Chắc bạn cũng hiểu là các ý chỉ và lối suy nghĩ trong lời nguyện này không phải hạng cao siêu, cũng không thuộc dạng cầu kỳ, nhưng đơn sơ có ý phát xuất từ tấm lòng thiện chí và ý nghĩ chân thành. Lối suy nghĩ và các ý chỉ của tôi đã làm hài lòng Đấng Chân Thiện Mỹ. Hơn nữa, tôi cũng không thể nào ngờ rằng lời tâm sự tự nhiên ấy lại hợp với Thánh Ý Thiên Chúa, và Chúa đã vui lòng ban cho tôi gấp đôi gấp bội, vượt trội cả khả năng của tôi, nhất là lối suy tư, ơn hiểu biết, và sự tiếp nhận. Bạn biết không, khi lời nguyện tôi dâng vừa kết thúc thì cùng lúc ấy trái tim của tôi bắt đầu đập nhanh, đập mạnh, và nhạy bén hơn. Hơn nữa, thần khí trong tôi cũng vui mừng khôn xiết, và tôi cảm thấy như có một dòng điện lạnh buốt phát xuất từ con tim, lan truyền đến tất cả các cơ bắp nằm rải rác trên khắp cơ thể, kể cả đầu và chân, cả gân cốt cột sống, cả hệ thống thần kinh, và linh hồn bất tử! Nói chung là cả thể xác lẫn tinh thần đều cảm nhận được sự hoan lạc thiêng liêng, giống như tôi đang ở Cõi Thiên Đàng diễm phúc! Hiện tượng lạ thường này kéo dài hai tuần lễ, và mỗi khi xảy ra nhất là lúc đang cầu nguyện, tôi cảm thấy sướng như tiên, như Thiên Đàng đang hiện hữu. Chính lúc hạnh phúc ấy, tôi cảm thấy Chúa đang kề bên, và Chúa đang nâng niu trìu mến. Tôi tìm đến bên Chúa để được Chúa ủi an và ban nhiều ơn sủng. Cũng chính vì lý do đó mà tôi thường xuyên đến với Chúa, hay cầu nguyện liên lỉ, và chỉ biết chầu chực nhà Chúa. Đã có lúc tôi ngồi đọc kinh miệt mài, và cho dù thời gian có dài đến 8-9 tiếng, tôi cũng không cảm thấy mệt mỏi bởi vì sự cầu nguyện đã trở nên nguồn cám hứng trong tôi và là niềm vui cho tôi. Giờ đây đối với tôi, đọc kinh không còn là sự nhàm chán, và lời kinh không còn nhạt nhẽo khô cằn, nhưng ngập tràn tình yêu và sinh khí. Thậm chí có hôm tôi ngồi ở Nhà Chầu từ sáng sớm đến chiều tối không ăn, không uống, và tôi ở đó để chầu chực, ăn vạ, chiêm ngưỡng, tu luyện, và cầu nguyện. Có ngày tôi lần hạt 20-30 Chuỗi, và cũng có khi lên tới 30-40 tràng, gồm cả Kinh Lòng Thương Xót và Kinh Cứu Các Linh Hồn của Thánh Nữ Gertrude.
Việc cầu nguyện liên lỉ đòi hỏi sự nhẫn nại, hy sinh, bền chí, và điều đó không phải do đức độ, tài năng, hay sức lực cá nhân mà tôi có thể làm được, nhưng do ơn Chúa là nguồn sống, là hồng ân vô biên đang chan chứa trong tôi. Tình Yêu siêu nhiên viên mãn đó đã hun đúc, thúc bách, và giúp tôi vượt qua mọi thử thách; vì thế, tôi mới có thể sống bình yên, kiên trì rèn luyện, và tiếp tục cầu nguyện mỗi ngày. Sự cầu nguyện liên lỉ đã giúp tôi khám phá ra một bí mật, và xin được bật mí tí xíu để bạn hiểu rằng sự bền bỉ ấy đã dần dần cảm hóa tôi, gia tăng tình yêu trong tôi, và biến đổi tôi thành người cầu nguyện; hơn nữa, nó còn biến chuyển ơn cầu nguyện thành hành động, hành động trở thành thói quen, và muối men đó đã trở nên món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của tôi. Thực ra, đây cũng chỉ là một trong những món quà mà Chúa đã tự tay trang điểm, gói chặt, và cài đặt nó vào trong trái tim tôi. Mặc dù quà tặng Chúa đã ban cho, nhưng kho tàng ơn thiêng đó phải do chính tay tôi mở ra, tự mình khám phá, và biến hóa nó thành hành trang cho mình. Sự cầu nguyện chuyên cần và sự biến hóa bản thân không phải chỉ một ngày hay một giờ là có thể làm được, nhưng là một chuỗi ngày dài và thậm chí phải tu luyện cả đời mới có thể cảm thông và thấu hiểu được chương trình của Chúa. Trong câu chuyện này, tôi muốn khuyến dụ bạn nhìn nhận một sự thật, đó là Bàn Tay Chúa đã dẫn dắt tôi từng bước, đã huấn luyện tôi mỗi ngày, và hằng đêm Ngài gởi Thiên Thần đến đánh thức tôi, giúp tôi hiểu biết về Chúa, chỉ dạy tôi cách tiếp cận và nhận ra Chúa, giống như Tiên Tri Êlia đã dạy cậu bé Sa-mu-en thuở nào.
Tôi vẫn còn nhớ những diễn tiến khi Thiên Thần đến với tôi lần đầu tiên trong đêm khua. Ngài đã lặng lẽ đến bên tôi và nhẹ nhàng đụng vào vai tôi bởi vì ngài được sai đến để chỉ dạy tôi nhận ra tiếng Chúa gọi. Mỗi đêm Thiên Thần đều xuất hiện đúng giờ, và ngài đã đánh thức tôi vào lúc 1:00 giờ sáng. Đây là lúc yên tĩnh giữa đêm khuya và là canh giờ đầu tiên của một ngày mới, rất thích hợp cho việc cầu nguyện và dâng tiến. Tôi nghĩ đây còn là khoảng khắc linh thiêng nhất mà Thiên Thần đã tuyển chọn để làm cột mốc cho sự thử thách. Ngài bắt đầu bài học bằng những hành động đơn giản. Lúc đầu, ngài chỉ đụng nhẹ vào vai tôi, và ngài mong tôi thức giấc để bắt tay vào cuộc. Vì hành động này quá mới mẻ và xa lạ đối với tôi cho nên tôi không biết và cũng không thể nào nhận ra đó là “sự lay động” của thần linh. Hơn nữa vào canh giờ đó, thân xác yếu đuối của tôi còn mê ngủ vì chưa đủ giấc cho nên tôi cứ lờ đi vì không hiểu rõ đó là sự đánh thức của Thiên Thần. Tuy nhiên, Thiên Thần vẫn nhẫn nại trong sứ mệnh thiêng liêng cao cả, và ngài đã vất vả chờ đợi sự cộng tác của tôi để công việc được thực hiện. Ngài đã âm thầm đến bên cạnh tôi và khẽ lay động đánh thức tôi. Nếu như tôi tỉnh giấc, thức dậy, và ngồi lần chuỗi đọc kinh thì ngài hài lòng đắc ý; sau đó ngài lặng lẽ rút lui và không làm phiền tôi nữa. Nhưng nếu tôi không tỉnh giấc hoặc không thức dậy thì ngài vẫn cứ ở đó cho đến hết 1 canh giờ, vừa đợi chờ vừa tiếp tục đánh thức. Nếu như tới lúc đó mà tôi vẫn chưa thức hoặc chưa dậy được thì ngài mới lủi thủi cúi mặt bỏ đi, coi như một đêm dài đã hoài công vô ích, và chủ đích bị thất bại cho nên ngày mai phải trở lại. Dĩ nhiên là Thiên Thần sẽ quay lại để tiếp tục huấn luyện cho tôi bởi vì ngài thừa biết tôi cần nhiều thời gian để thay đổi, để hội nhập, và để hoán cải. Hơn nữa, tôi phải chuyên cần thì đời mới siêu thoát bởi vì tâm trí tôi vẫn còn vương vấn bụi trần và thể xác vẫn còn nặng trĩu mùi thế tục.
Bạn biết đó có hôm tôi quá mỏi mệt, và đang lúc ngủ say thì Thiên Thần đến đánh thức; tuy biết rằng đó là giờ thiêng, đó là điểm hẹn, nhưng tôi vẫn say mê ngủ không chịu thức dậy; vì vậy, tôi cứ thản nhiên yên giấc, chẳng đếm xỉa gì đến sự hoài mong ngóng đợi. Mặc dù Thiên Thần đã đánh thức tôi nhiều lần và bằng nhiều cách, nhưng hết lần này đến lần khác tôi vẫn không đáp trả. Quả thật, cũng chính vì sự lầm lì ấy đã khiến Thiên Thần nổi giận, và ngay đêm ấy ngài không dùng ngón tay mềm mại đụng vào vai tôi như thường lệ, nhưng đã dùng cả bàn tay dáng cho tôi một đòn té lửa, giống như tia sét đánh khiến tôi chợt tỉnh giấc. Ngay lúc ấy tôi vội vàng thức dậy, rồi nhanh chóng ngồi dậy đọc kinh mặc dù lúc đó mắt tôi vẫn còn đang lim dim ngái ngủ. Chắc bạn cũng hiểu là khi Thần Linh nổi giận thì mọi thứ sẽ không ổn và mọi sự sẽ chẳng yên vui. Hành động giận dữ của Thiên Thần xảy ra đêm ấy có phần hung dữ và bạo động; tuy nhiên, sự kiện ấy cũng là bài học tốt cho tôi bởi vì sự nổi giận của Thiên Thần đã làm tôi tỉnh giấc, sau đó thức tỉnh, rồi dần dần tỉnh ngộ và nhận ra đó là cách giao tiếp của thần linh. Cũng kể từ giờ phút ấy tôi mới thấu hiểu rằng: sự tiếp cận, đón nhận, đối thoại, và ngoại giao với Thiên Thần chỉ là bước đầu và là cầu nối để tôi có thể tiếp cận Thần Linh Thiên Chúa, liên kết với Chúa, và đàm thoại với Chúa qua những dấu chỉ và cảm giác thiêng liêng mà Thiên Thần đã truyền dạy.
Để tôi được quen dần với những thay đổi nội tâm, Thiên Thần luôn kề cận, trực tiếp chỉ dạy, và ngày đêm thúc giục tôi phải kiên tâm bền chí. Tuy có lúc tinh thần tôi mệt mỏi và nản chí, nhưng vì muốn khám phá ra chân lý và sự huyền bí của thế giới tâm linh, tôi phải tiếp tục nhẫn nại để khỏi bị thất bại. Hơn nữa tôi biết Thiên Thần rất quan tâm, quá nhiệt tình, và luôn hy sinh cho phần rỗi của tôi. Chính vì thế mà tôi luôn cố gắng làm theo sự chỉ dẫn của Thiên Thần để sớm vượt qua những khó khăn nội tâm đang âm thầm ray rứt. Bên cạnh đó sự dứt khoát từ bỏ tội lỗi cũng đang âm ỉ thách thức tôi phải cắt đứt quan hệ với tà thần để kết hợp với Thần Linh trong các sinh hoạt tâm linh trong tinh thần yêu thương và hướng thượng. Kể từ đó tôi muốn nhanh chóng cải thiện những thói hư tật xấu, những đam mê trần tục, những dục vọng ích kỷ, những cử chỉ tham lam, và những việc làm vô ích. Ngoài ra tôi còn phải khắc phục những khuyết điểm yếu đuối để làm chủ bản thân trong tinh thần đổi mới, với ý nghĩ trong sáng, ý chí thanh cao, và bao dung độ lượng. Có người cho rằng những ý tưởng cao thượng này không thực tế và khó có thể thực hiện; tuy nhiên, Thiên Thần là phương tiện và ơn Chúa là điều kiện đã giúp tôi thực hiện và kiện toàn sứ mệnh. Việc gì cũng do Thánh Ý Chúa, và trốn đâu cũng không thoát khỏi bàn tay Chúa cho nên sự thử thách dành cho tôi không chỉ là lời mời gọi suôn sẻ một chiều, nhưng là sự đáp trả hai chiều, cộng với sự hội nhập vào chương trình của Chúa. Lúc đó tôi không còn phải là người thụ động đứng ở ngoài cuộc, nhưng là người hoạt động ở trong cuộc và dĩ nhiên sẽ thuộc về Chúa.
Sự thử thách đa diện trong cuộc đời tôi chỉ được thực hiện trên phương diện cá nhân, và tôi đã luyện tập để đạt được vài mục đích ngắn hạn mà chính tôi đã đặt ra lúc ban đầu. Tôi cảm thấy phấn khởi khi về đến đích và đạt mục đích; tuy nhiên, Thiên Thần vẫn chưa chịu đứng yên, vẫn không chịu dừng bước bởi vì thước đo của ngài là đường dài và mãi mãi, cho nên tôi phải tiếp tục mục đích sống thánh thiện, nghĩa là phải siêng năng tu luyện bản thân, rèn luyện nhân đức, và tỉnh thức sẵn sàng. Điều này cũng có nghĩa là tôi phải tiếp tục học hỏi như những đêm đầu tiên, nhưng tiến sâu tiến xa về chiều ngang chiều dọc. Những bài học thức dậy mỗi đêm vào lúc 1:00 giờ sáng đã trở nên quen thuộc đối với tôi, và sự phản ứng tự nhiên khi được Thiên Thần đánh thức cũng không còn xa lạ khi tôi đã thông thạo và trở thành lão luyện, nhất là trong việc đọc kinh cầu nguyện; tuy nhiên, khi thấy bài học đã quá dễ dàng và tâm lý đã sẵn sàng, Thiên Thần lại bày ra một trận địa mới, giống như một chiến tuyến mới với mục đích tấn công diện rộng, nghĩa là ngài sẽ giúp tôi gia tăng khả năng chịu đựng và sức chiến đấu. Không dấu gì bạn, sau khi trận chiến thứ nhất vừa kết thúc, Thiên Thần lại tới gây chiến lần thứ 2 và đánh thức tôi vào lúc 3:00 giờ sáng. Bởi vì tôi đã được chuẩn bị cho nên sự nhận diện và sự kiện Thiên Thần đột nhiên xuất hiện lần thứ 2 trong đêm cũng không có gì khó hiểu bởi vì chủ đích của việc “đánh mau thắng lẹ” là để rút ngắn thời gian; hơn nữa, công việc mà Thiên Thần vẫn thường xuyên làm đối với tôi không còn cầu kỳ xa lạ, nhưng đã trở nên quen thuộc, dễ hiểu, và dễ chấp nhận. Ngoài ra, tôi đã đón nhận nó một cách dễ dàng, và tôi cũng không màng đến việc phải thức dậy lần thứ 2 trong đêm bởi vì tôi tin rằng việc ấy xảy ra cũng do Thánh Ý Chúa, và việc Chúa làm đều tốt cho tôi. Chắc chắn nó sẽ giúp tôi lớn khôn về nhân cách và lớn mạnh về ý chí, nghị lực.
Việc gì tới cũng đã tới, và điều mới nhất mà tôi bắt đầu làm quen là phải thức dậy lần thứ 2 lúc 3:00 giờ sáng. Đây là giờ cao điểm của đêm khuya, và cách nửa vòng trái đất ở phía bên kia địa cầu thì đó là 3:00 giờ chiều, giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Đấng chính là Chủ Nhân và là nguyên nhân phát sinh ra Kinh Lòng Chúa Thương Xót. Thú thật với bạn là sự đột nhiên bị đánh thức dễ làm cho người ta nổi cáu, bực bội, và tức tối bởi vì giấc ngủ bị quấy phá; hơn nữa, giữa canh ba đêm tối mà mỗi đêm phải thức dậy để ngồi suy gẫm thì chẳng ai muốn làm bởi vì đó là một việc khó làm, một thử thách đáng kể; tuy nhiên,
Điều đáng nói ở đây là chương trình tập huấn này chỉ kéo dài 2-3 tháng, và trong khoảng thời gian đó tuy không có điểm gì đáng chú ý, nhưng tôi nghĩ đây cũng là chặng đường tối thiểu mà tôi phải đi qua, là điều kiện cần thiết để tôi biết cải thiện đời sống, và là khoảng thời gian quan trọng để tôi trở nên thân mật và gần gũi với Chúa. Tuy rằng trách nhiệm của tôi rất đơn giản, nghĩa là tôi chỉ việc ngồi dậy đọc kinh mỗi khi Thiên Thần đánh thức, nhưng những chuỗi ngày bình yên với việc làm cầu nguyện đơn giản ấy đã mài dũa, sơn sửa, tẩy rửa, và làm sống lại các nhân đức trong tôi. Nó đã giúp tôi đổi mới và chuẩn bị sẵn sàng: Hễ khi nào Thiên Thần đánh thức thì tôi dậy bất kể là thân thể của tôi lúc đó khỏe mạnh hay đau yếu, dù thời tiết hôm đó có nắng hay mưa, và cảm giác lúc đó có lạc quan hay chán chường. Lúc đó, tôi quyết chí thức dậy và tôi phải ngồi dậy để chu toàn bổn phận. Hơn nữa khoảng thời gian bình thản đó đã giúp tôi quen dần với tiếng Chúa gọi, và tôi đã biến chuyển tiếng Chúa gọi thành ơn gọi thiêng liêng cho riêng mình. Ngoài ra, nó còn giúp cho tôi cơ hội để bày tỏ lòng trung thành, trung tín, và trung kiên trong thiên chức Linh Mục.
Sự quy phục người khác đối với nhân gian thường được coi như một sự thua kém, sự hèn yếu, nhút nhát, một sự mất mát hay một điều sỉ nhục; tuy nhiên, đối với những người có niềm tin thì sự tuân lệnh và tùng phục Thiên Chúa lại được coi là một nhân đức cao thượng, một đức tính khiêm nhường, và là một lối sống thánh thiện. Đáng thương cho những ai hay tự cao tự đại, nhưng lại không biết mình là ai trước mặt Thiên Chúa và người đời; vì thế, họ thường hay bị người đời chê bai khinh bỉ vì sự kiêu căng tự phụ phát xuất từ cách ăn nói chói tai, cử chỉ hống hách, và hành động ngạo mạn của họ. Trái lại, những ai hay khiêm tốn và sống khiêm nhường thì được người khác thương yêu, quý mến, và kính trọng. Trong bầu khí ảm đạm của Mùa Chay năm 2012, Thiên Thần đã ân cần chỉ dẫn và dạy bảo tôi về nhân đức khiêm nhường, và trong suốt thời gian 40 ngày chay thánh, mỗi đêm Thiên Thần đến đánh thức tôi lần thứ 3 vào lúc 5:00 sáng, nghĩa là 3 lần trong đêm, giấc ngủ của tôi bị cắt thành 3 đoạn: 1:00 giờ sáng, 3:00 giờ sáng, và 5:00 giờ sáng. Dĩ nhiên là khi được Thiên Thần đánh thức lần thứ 3 thì tôi cũng đã sẵn sàng đối diện bởi vì tôi đã có những kinh nghiệm học hỏi từ 2 giai đoạn tập luyện trước đó. Hơn nữa, tôi biết việc Thiên Thần làm đều có mục đích chính đáng, khiến tôi yêu thích và kính phục cho nên tôi không hề phản đối và cũng không ái ngại khi phải thức dậy 3 lần trong đêm. Rất may cho tôi là thời gian và đoạn đường này chỉ kéo dài hơn một tháng, chính xác là 40 ngày của Mùa Chay, và trong những chuỗi ngày ấy đức tin của tôi được tôi luyện qua 3 giai đoạn thử thách.
Sự kiện hy hữu này đã nhắc nhở tôi một câu chuyện trong Thánh Kinh nói về Thánh Phêrô Tông Đồ khi Chúa Giêsu hỏi ông 3 lần bên bờ hồ Ga-li-lê-a: “Phêrô, con có mến Thầy không?” và cả 3 lần ông đều thưa: “Dạ có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Qua 3 lần thức dậy trong đêm Chúa cũng đã âm thầm hỏi tôi 3 lần: “Gioan, con có yêu mến Thầy không?” và câu trả lời của tôi cũng giống như Phêrô nghĩa là “Có,” và dĩ nhiên điều đó được minh chứng bằng hành động và được diễn tả qua 3 giai đoạn thức giấc. Bước 1: Nhận ra tiếng Chúa gọi và quảng đại đáp trả. Bước 2: Đến gần Chúa và học biết Chúa. Bước 3: Vâng lời Chúa và tùng phục Chúa. Cả hơn 1 tháng trời tuân phục và làm theo sự chỉ dẫn của Thiên Thần, tự nhiên tôi biến chuyển thành người thuần phục lúc nào không hay và làm theo Ý Chúa lúc nào không biết. Tôi chỉ biết một điều là sự tuyệt đối tuân phục là mục đích chính của lần thức dậy thứ 3, và trong suốt giai đoạn thực tập, tôi đã đề cao và đào sâu đức tính vâng lời, nghĩa là tuyệt đối vâng phục và tùng phục. Đối với Chúa thì sự vâng phục còn cao trọng và quý giá hơn cả Của Lễ Toàn Thiêu; vì thế, sự hiến tế của Đức Kitô đã bày tỏ và làm rõ ý nghĩa đức vâng lời bởi vì Ngài hoàn toàn vâng phục Chúa Cha và phó dâng tất cả. Ngài bị sỉ nhục, chịu khổ hình, chịu đóng đinh, và hy sinh chết trên cây thập giá. Sự tuân phục Thánh Ý Chúa Cha là của lễ vô giá, và thánh giá cứu độ của Đức Kitô đã đem đến cho toàn thể nhân loại ơn tái sinh.
Trong tinh thần vâng phục, tôi nhận thấy tình yêu của Chúa rất đáng kính phục bởi vì tình yêu đó đã hoàn toàn thuyết phục tôi. Cả lý trí, tâm lý, ý chí, và nghị lực của tôi cũng bị Ngài chinh phục, và tôi đã quy phục Tình Yêu Thiên Chúa vì tình Chúa yêu tôi không bờ không bến. Ngài luôn đến bên tôi để trợ giúp và bảo vệ tôi trong lúc gặp hiểm nguy, đã thứ tha và dẫn tôi ra khỏi chốn bùn lầy, đã tẩy rửa tôi sạch mọi vết nhơ và hoàn lại cho tôi tuổi đời niên thiếu, để tôi được quay lại quảng đời hồn nhiên, được bình yên tâm trí, và nhất là được trở lại kiếp con người, người con của Chúa. Mặt khác, Chúa đã đi tìm tôi mặc dù tôi luôn cố ý lẩn trốn, và Chúa vẫn tiếp tục mời gọi tôi. Ngài không chỉ quý mến tôi, nhưng còn tuyển chọn và nâng tôi lên hàng khanh tướng và cho tôi được vui sướng trước Thiên Nhan Ngài. Kể từ lúc tôi tùng phục Chúa, Chúa đã cho tôi được thụ hưởng những chuỗi ngày hạnh phúc, nhất là trong những lúc tôi được sống trong sự bình an của Chúa, và tôi vẫn luôn được nghe Chúa nói thì thầm bên tai: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Sự bình an của Chúa đã làm cho huyết mạch tôi lưu thông, là công cụ giúp thân thể đi lại nhẹ nhàng như mây khói, và nói đúng hơn là cảm giác đó đã làm cho hồn tôi thư giãn và thân xác tôi được thỏa mãn.
Tôi ăn được, ngủ được, và tâm trí không bị quấy rầy, không bị chi phối, không bị phân tâm, và nhất là không rơi vào tâm trạng hoảng loạn, sợ sệt. Hơn nữa, sự bình an của Chúa còn giúp tôi gia tăng sinh lực và sức mạnh nhất là sau nhiều lần thức dậy trong đêm bởi vì sự bình an đó đã giúp tôi ngủ lại một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thậm chí khi còn trong thời kỳ luyện tập, tôi chỉ vừa mới đặt mình xuống giường là đã nhắm mắt ngủ ngay, ngủ say, và hay ngáy to, khò lớn. Nhiều khi tôi không cần lấy đà nhưng vẫn có thể ngủ lại ngay sau đó, và dù chỉ ngủ trong chốc lát, 15 phút, nửa tiếng, hay một canh giờ, tôi có cảm giác như mình đã ngủ một giấc ngàn thu, nghĩa là đã trọn giấc, đã quá mãn nguyện, đã quá đầy đủ, giống như tôi đã ngủ 8-9 tiếng liên tục; như thế nguồn điện nước trong tôi đã được xạc lại đầy đủ, sẵn sàng để tôi đối diện với những trận chiến kế tiếp nhất là những công việc mục vụ mà Chúa sẽ gởi đến cho tôi vào ngày mai và trong một tương lai gần.
Một vấn đề nữa rất mới mẻ và quan trọng trong câu chuyện mà tôi đang kể với bạn, đó là sự xuất hiện của những vị thần đen tối mà chúng ta quen gọi là lũ quỷ bởi vì chúng rất đông nhưng lại không rõ lai lịch, không hình dạng nhất định, và không rõ ràng minh bạch. Điều này cũng có nghĩa là chúng làm việc mập mờ, lúc trắng lúc đen, và quen đường lối bất chính, gian tà, mưu hại, độc ác, ích kỷ, phá hoại, chia rẽ, xúi bậy, và làm cho người ta hay nhầm lẫn, hay nóng giận, cộc cằn, tham lam, lười biếng, ganh tị, ghen tức, bực bội, thù hằn, và lẫn lộn, không biết đâu là lẽ phải, không biết đâu là sự thật. Thú thật với bạn là trong mấy năm gần đây, trước khi tôi nhận được ơn hoán cải, tôi đã trải qua những chặng đường đen tối. Tôi đã phải sống trong những tháng ngày lương tâm bối rối, sợ sệt, buồn rầu, lo âu, và ở đâu tôi cũng có thể trá hình và tận tình sử dụng những chiêu thức của ma quỷ trong khi tôi không hề hay biết đó là cạm bẫy của chúng. Mặt khác, tôi vẫn thường xuyên đối diện và đối xử với mọi người bằng lời nói điêu ngoa, cử chỉ ranh ma, và hành động sai trái trong khi tôi vẫn nghĩ đó là đúng, là công minh, là tinh khiết, và quảng đại. Kể từ khi tôi được nhìn thấy Chúa, và được Chúa ban nhiều ơn thánh, nhất là trong thời kỳ được huấn luyện để làm quen với đời sống thánh thiện, quỷ vẫn thường xuyên xuất hiện để quấy phá tôi bởi vì chúng thừa biết tôi và chúng từ nay không còn đi chung đường và về chung hướng, nhưng đã trở thành kẻ đối nghịch, đi ngược chiều, khác đường, và khác hướng.
Đáng thương cho tôi là môi trường hoạt động và nơi tôi trú ẩn vẫn còn quá nhiều cạm bẫy, và tôi vẫn thấy quỷ xuất hiện. Có những lần chúng xuất hiện ban đêm, nhưng cũng có khi chúng đi lại giữa ban ngày. Có lần tôi thấy quỷ xuất hiện như một con quái vật gầy còm, đen đủi, có 4 tay, nước da màu tro đen, ở mặt có những vằn sáng sậm màu rong rêu, khuôn mặt hơi giống dơi, nhưng tướng lại giống khỉ. Có khi tôi thấy quỷ xuất hiện như con rắn, nhưng nó không cắn như loài rắn ở sa mạc thời Môisen; ngược lại, nó chỉ xuất hiện để hù dọa. Có lúc nó quấn vào cổ tôi, rồi sau đó xiết cổ bắt tôi há miệng và thọc đuôi vào miệng tôi bởi vì chúng không muốn tôi nói về phép lạ đã được chứng kiến. Hơn nữa chúng thừa biết rằng khi người khác nghe tôi kể chuyện về Phép Lạ Thánh Thể thì họ sẽ tin, mà khi họ tin thì họ sẽ ăn năn hối cải, sẽ quay trở lại với Chúa, sẽ trở về với Giáo Hội, tham dự Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể, cử hành Bí Tích... Lúc đó họ sẽ từ bỏ ma quỷ, và vương quốc của chúng sẽ không còn lan rộng, không còn bành trướng, nhưng teo lại vì bị mất đi nhiều thành viên đáng quý. Có những đêm quỷ rất giận dữ, chúng xuất hiện ngay trên giường, rồi chúng thay phiên nhau xiết chặt và đè tôi đến mức không thể cử động được. Sau đó chúng trêu ghẹo, quậy phá, và xúc phạm đến thân xác tôi. Đôi khi tôi bị chúng ép đến mức không thể kiềm chế được bản thân, không tự điều khiển được sinh hoạt thuần túy của chính mình. Có lần chúng bẻ tay lái, khiến xe của tôi đang chạy thẳng bỗng dưng lạng qua lề, quẹt vào các vật dụng bên đường làm xe mới bị trầy trụa, móp méo; tuy nhiên, sáng hôm sau Chúa đã thương gởi người đến sửa xe cho tôi miễn phí. Điều này cho thấy “Có Thần trị thần; vỏ quýt dày móng tay nhọn.”
Hơn nữa, Chúa còn cho biết là Ngài rất thương tôi, luôn bảo vệ tôi, và Ngài muốn dạy tôi phải tuyệt đối tin tưởng cho dù chuyện hên xui may rủi có thể xảy ra liên tục. Có đêm quỷ lay chuyển giường ngủ một cách dữ dội khiến tôi bị chọc tức; tuy nhiên, giấc ngủ bình yên đã trở lại ngay sau đó. Có lúc chúng phá làn sóng điện thoại, chuyển đổi âm thanh, ngăn chặn cuộc gọi, thay đổi giọng nói, và nói các thứ tiếng lạ. Còn nhiều lần khác chúng xuất hiện trong giấc mơ, cải trang thành ông nọ bà kia, lúc người thân lúc người lạ, rồi giả danh giả tiếng, và biến chuyển giấc mơ của tôi thành ác mộng để gieo rắc vào đầu tôi những ý tưởng và đường lối bất an, làm tâm tư bất ổn, và làm tổn hại đến sức khỏe, thanh danh, mối quan hệ gia đình, và tình yêu liên đới với mọi người chung quanh. Mục đích của chúng là làm cho tôi dễ nổi nóng, dễ nóng giận, mà giận thì mất khôn; vì thế, tôi dễ bị phân tâm, mất đi sự tự chủ, và từ đó khó quyết định, rồi dần dần mất tự tin, trở thành lạnh lùng, trầm cảm, lười biếng, thờ ơ, và làm lu mờ đi sự chú tâm đến việc yêu mến Chúa và phụng sự Chúa. Mặt khác, chúng muốn làm gián đoạn các chương trình sinh hoạt tâm linh, thay đổi ý định, tạo ra sự đối kháng và những chướng ngại trên đường đi lối bước, tước đoạt đi tài sản cá nhân, và nhất là phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa tôi và mọi người thân tín, đặc biệt là những người trong gia đình.
Ngoài ra, chúng còn đem đến cho tôi nhiều cơ hội đam mê thể xác, tham lam tiền tài, coi trọng danh vọng, và mong chiếm được nhiều của cải trần thế. Tuy nhiên, tôi cũng rất mừng bởi vì khi bị ma quỷ cám dỗ, tôi cũng tìm được chỗ nương thân, tìm được nơi cầu cứu, và tôi đã cậy nhờ sự can thiệp của Vị Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Mỗi khi thấy quỷ đến quấy phá, tôi liền đọc Kinh Thiên Thần Micae để xin ngài cứu giúp, và ngài đã đến nhanh như chớp để chiến đấu bảo vệ tôi. Chỉ thị của ngài là giải cứu tôi và đem lũ quỷ trở về nơi tăm tối. Sức mạnh của ngài rất là oai phong, và sứ mệnh của ngài cũng đáng kính phục bởi vì ngài luôn tuân phục Thánh Ý Chúa. Chúa đã thương mến tôi, và vì thế Tổng Lãnh Thiên Thần Micae cũng không ngần ngại đến để giải thoát tôi khỏi tay quỷ dữ. Ngài đã cứu giúp tôi nhiều phen, và như thế tôi sẽ luôn ca khen, tiếp tục cầu khẩn, và mến yêu ngài. Dĩ nhiên là tôi biết quỷ đã nhiều lần giận dữ bởi vì khi chúng giận dữ thì chúng càng xuất hiện thường xuyên. Khi chúng xuất hiện liên miên thì đó là dấu chỉ để tôi biết có chuyện quan trọng sắp xảy ra, và khi chúng đến quấy phá liên tục thì đó cũng là dấu hiệu cho tôi biết có điều gì đó đã gây bất lợi cho chúng nhưng đem lại lợi ích cho tôi. Điều này còn có nghĩa là chúng cũng biết trước việc Chúa sắp thực hiện; đặc biệt, khi chúng biết Chúa càng ban ơn cao trọng, càng vĩ đại thì chúng lại càng phá hoại ghê gớm, càng làm tổn hại, và sự thường thì chúng đến quấy phá trước khi tôi nhận lãnh ơn lành. Đối với quỷ thì chúng cũng thừa biết rằng Chúa không chỉ hết mình yêu thương tôi mà còn ra tay trợ giúp tôi, cứu thoát tôi khỏi mọi nguy hại, giải thoát tôi khỏi ách thống trị của ác thần Satan, tách tôi ra khỏi thế lực đen tối, và cho tôi được tự do để chọn Chúa. Hơn nữa, tôi còn biết quỷ hết sức ghen tức bởi vì chúng đã nhìn thấy tình yêu của Chúa dành cho tôi không hề thay đổi, không chút suy giảm, nhưng ngược lại vẫn tiếp tục gia tăng. Mặt khác, Ngài lại còn ban thêm cho tôi nhiều ơn lành hồn xác.
Hai đặc ân thiêng liêng rất quan trọng mà tôi cần kể tên và nói đến: Thứ nhất là Chúa vẫn chúc lành và cho phép tôi được tiếp tục nhìn thấy Gương Mặt của Chúa trong Mình Thánh, và Ngài đã xuất hiện trong các Thánh Lễ được cử hành, hiện diện trong tất cả các Hình Bánh, dù Mình Thánh đó to hay nhỏ, ở nhà thờ hay ở nhà xứ. Sự kiện này không chỉ xảy ra một lần, nhưng đã xảy ra nhiều lần và vẫn còn tiếp diễn. Thứ hai là nhiều người đã trở lại đi lễ và bắt đầu yêu mến Thánh Thể, đặc biệt là họ tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô bởi vì chính mắt họ cũng đã nhìn thấy Gương Mặt Chúa Giêsu trong Tấm Bánh mà tôi đã cho họ xem trên Bàn Thờ, trong lúc cử hành Thánh Lễ hoặc trong những lúc thuận tiện mà họ yêu cầu. Dẫu sao đi nữa thì đây cũng là một trong những biến cố hy hữu, một phép lạ khá đặc biệt mà người may mắn lắm mới có thể được cơ hội chứng kiến một lần trong đời.
Sau khi những biến cố đã xảy ra và học hỏi từ những sự kiện đã và đang được tiếp diễn, tôi có thể khẳng định rằng: Gương Mặt đã hiện ra trong Mình Thánh không phải là một Hình Ảnh đơn giản, nhưng là một Con Người có thật, một Con Người đang sống, và Người ấy chính là Đức Kitô, Người vẫn đang nói chuyện, giao tiếp, và đàm thoại với tôi. Quyền năng của Ngài rất siêu việt tuyệt đối, và đường lối của Ngài thật rộng rãi, thoải mái, và tự do. Điều đó có nghĩa là Ngài muốn làm việc gì thì không ai có thể ngăn cản. Ngài đang nắm giữ vận mạng của tôi và đang điều khiển tất cả các sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của tôi; vì thế, tôi luôn tuyệt đối tin tưởng, tùng phục, và làm theo sự chỉ dẫn của Ngài. Cứ thỉnh thoảng vài ba tuần hoặc dăm ba tháng, Ngài lại tái xuất các chiêu điêu luyện để trừ khử những thứ dư thừa và độc hại trong trái tim tôi, để tâm hồn tôi không còn vương vấn những chất dơ cặn bã, và từ đó trái tim tôi có chỗ để cưu mang những hương hoa mỹ vị, nhất là những giá trị đích thực của một tâm hồn hạnh phúc. Điều tuyệt hảo nhất mà con tim nhân loại có thể ôm ấp và chia sẻ đó chính là tình yêu, và tình yêu cao cả đòi hỏi phải có sự hy sinh, đức nhẫn nại, sự trung thành, và hành trình cầu tiến, nhất là phải đối diện với muôn vàn thử thách bằng niềm tin và hy vọng cho dù cuộc sống có long đong, đời người có vất vả, và cuộc tình có bị vấp ngã thì mình cũng phải chỗi dậy để hoàn tất cuộc hành trình.
Chúa Kitô đã kêu gọi tôi, và tôi đã đáp trả và trở thành linh mục. Tôi đã đi theo Chúa qua muôn nẻo đường, và cho đến hôm nay, Ngài lại tuyển chọn tôi trong một môi trường và thời điểm khá đặc biệt. Ngài đã ban cho tôi muôn vàn ơn phúc, và chính lúc này đây tôi càng cảm thấy tâm hồn được bình an và tràn đầy hạnh phúc. Tôi biết Thiên Chúa của tôi là một Thiên Chúa quảng đại, yêu thương, nhưng lại rất ganh tị bởi vì Ngài không muốn tôi đi theo một người nào khác, không muốn tôi có thêm vị thần nào khác, và không muốn tôi tùng phục một chúa tể nào khác. Dĩ nhiên là tôi biết Ngài chỉ muốn tôi sống cho Chúa, thuộc về Chúa, yêu mến Chúa, và mãi mãi phụng sự Chúa, một Thiên Chúa hằng sống, uy linh, cao cả. Trái lại, Ngài muốn tôi phải từ bỏ vinh quang trần thế, kể cả tiền tài, vật chất, và tất cả các loại quyền thế để tôi được hoàn toàn tự do cho Chúa, trông cậy vào Chúa, ký thác cho Chúa, và tin tưởng nơi Chúa. Hơn nữa, khi tôi biết quyết tâm từ bỏ và phó thác mọi sự cho Chúa thì Chúa sẽ ra tay, đong đầy Thần Khí, và làm cho tâm trí tôi nên vẹn toàn.
Xưa kia chú rể của tôi hay bị lúng túng vì đã đoán không trúng về số phận của những người lân cận. Tuy nhiên trong trường hợp của tôi thì ông lại đúng và tiên đoán trúng bởi vì ông đã phát biểu thế này: "Khi cháu 40 tuổi thì lúc đó cháu sẽ có tất cả, và cuộc đời của cháu sẽ trở nên an nhàn." Không biết đây là trường hợp ngẫu nhiên, đương nhiên, dĩ nhiên, tự nhiên, hay là ngạc nhiên mà lời tiên đoán vô căn cứ của ông đã trở thành sự thật trong ngày sinh nhật thứ 40 của tôi bởi vì trong ngày đặc biệt ấy tôi đã nhìn thấy Mặt Chúa, và Chúa đã ban cho tôi tất cả mọi sự. Thực ra, câu trả lời về sự tiên đoán này vừa đúng nhưng cũng vừa sai vì hai lý do khác biệt, và sự giải thích dành cho người đời và người đạo tạo ra hai cái nhìn riêng biệt sau đây.
Thứ nhất là lời suy đoán tiên tri của ông đã không đúng theo cái nhìn nhân gian dưới con mắt trần gian, không đúng theo tiêu chuẩn và sự nhận xét của người trần tục bởi vì mãi cho đến hôm nay, tôi vẫn không phải là người giàu có, và tôi cũng không có mọi sự như điều mà chú rể tôi đã nghĩ tới: đó là tiền tài, của cải vật chất, và tất cả vinh hoa phú quý ở đời này. Hơn nữa, cuộc sống của tôi cũng không mấy an nhàn như muôn vàn người khác; trái lại, tôi vẫn phải long đong vất vả, và trả bill trả nợ để được chia sẻ cuộc sống như mọi người.
Thứ nhì là câu nói ấy hoàn toàn chính xác theo ý nghĩa tôn giáo, lý tưởng Công Giáo, và chân lý sống đạo bởi vì khi được gặp Mặt Chúa, được nhìn thấy Chúa, được tâm sự với Chúa, và được Chúa ân cần đáp trả thì tôi đã thỏa mãn trong cõi lòng. Hơn nữa, tôi thật sự mãn nguyện về những cơ duyên được tiếp cận với Chúa bởi vì Chúa có tất cả và Chúa là tất cả. Không có gì trên đời này có thể so sánh với Chúa, không gì có thể bằng Chúa, và không có gì quý giá hơn Chúa. Nói như thế để bạn hiểu rằng mọi thứ như của cải vật chất và tất cả vàng bạc châu báu, vinh quang, danh dự, và quyền lực mà cả thế giới này ban tặng cũng không thể nào cao trọng hơn ơn Chúa, không thể nào linh thiêng hơn quyền năng Chúa, và không thể nào hạnh phúc hơn Nước Chúa. Chắc chắn có điều mà nhiều người vẫn chưa biết, đó là: có những món quà siêu nhiên tuy rất nhỏ bé, nhẹ nhàng, không hình hài, màu sắc, không hương vị, không nặng ký, nhưng thật ra nó đáng giá hơn tất cả vàng bạc châu báu; mặt khác, có những ân huệ thiêng liêng, dù rất riêng tư, cá biệt, nhưng khá mãnh liệt, và chúng rất quý hóa và có giá trị hơn tất cả của cải vật chất, tiếng tăm, danh dự, và quyền thế ở trần gian này. Đương nhiên, tôi biết vẫn còn một chi tiết nữa mà ngay cả chú rể tôi lúc đó vẫn không biết, đó là: có nhiều món quà vĩ đại lại không có mặt ở thế gian này, không thuộc về thế giới này, và không tồn tại ở trái đất này. Lạ thay, chúng cũng không thể tìm thấy ở trên dương gian này, nhưng chúng rất hữu dụng và cần được sử dụng ngay ở trần gian này. Những thứ mà tôi vừa nói đến tuy vô hình, vô dạng, nhưng mạng sống của tôi lại tùy thuộc vào chúng, và tương lai của tôi lại gắn liền với chúng, đó chính là ơn Chúa và Thiên Đàng.
Đời tôi thật là có phúc vì đã có lúc tôi được chiêm ngưỡng hạnh phúc giống như Thiên Đàng. Dĩ nhiên là vàng bạc không thể đổi lấy những khoảng khắc thiên thu ấy, tiền tài không thể nào mua được những không gian bình thản ấy, và cho dù người đời có giàu sang và quyền thế mấy đi chăng nữa thì họ cũng không thể nào chiếm được hạnh phúc và tự túc lo cho phần rỗi của mình. Hành trình đến với Chúa là một ơn phúc, và được sống bên Chúa là một hồng phúc mà ngàn đời đáng chúc tụng. Nói tóm lại, tôi phải chia sẻ với bạn về một liên khúc đầy sự hạnh phúc trong lúc mừng sinh nhật thứ 40, và nhờ phép lạ đã xảy ra trong dịp đặc biệt ấy, cuộc đời của tôi đã hoàn toàn thay đổi bởi vì tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu hiện ra trong Mình Thánh. Thật ra, đây là một đặc ân cao cả vì đã được tiếp cận với Chúa, và tôi cảm thấy vinh hạnh vì được phép tiếp chuyện và trực diện Thiên Nhan Chúa. Trong tình thân mật và gần gũi, tôi đã trò truyện, cầu nguyện, và đàm thoại với Chúa như một Người Bạn thân thiết mà tôi đã từng quen biết. Ngài là một Thiên Chúa hữu hình, đã quên mình và hết tình yêu thương tôi. Ngài rất quảng đại và giàu có, là kho tàng vĩnh cửu, và là chủ nhân cao quý vĩ đại nhất của đời tôi. Ngài đã cho tôi tất cả, và tôi cần đáp trả với tất cả tình yêu, linh hồn, và cuộc sống.
Chúa Giêsu đã tặng tôi một món quà quá vĩ đại trong dịp mừng sinh nhật thứ 40, một con số đặc biệt liên quan đến nhiều sự kiện trong Kinh Thánh. Ngài đã cho phép tôi được nhìn thấy Long Nhan Chúa qua Gương Mặt khả ái, bao dung, nhân hậu, và đức độ của Chúa Giêsu. Ngài đã tái thu nhận và ban cho tôi một quả tim mới, và đổ ngập tràn tâm hồn tôi nguồn vui thánh ân. Ngài đã ân cần giải cứu tôi khỏi đám tà ma ác quỷ, đã giải thoát tôi khỏi những quyến rũ đam mê bại hoại, đã trả lại tôi nguồn sinh khí của tuổi ấu thơ, và dạy tôi hít thở bằng những cảm giác khoái lạc của một tâm hồn tự do, bình an, và tràn ngập Ơn Thánh. Ngài đã uốn nắn tôi để trở nên người bạn hữu, một môn đệ luôn miệt mài cầu nguyện, và một người mục tử luôn thiện tâm thiện chí phục vụ Hội Thánh. Điều đáng mừng cho tôi là cuộc sống tâm linh của tôi đã thay đổi, và chính tôi cũng đang thay đổi mỗi ngày bởi vì khi được tiếp cận với Chúa, Chúa càng ban ơn thánh và giúp tôi khôn lớn trưởng thành. Ngài nói chuyện với tôi, và tôi đã nhận ra giọng nói của Ngài. Ngài tâm sự với tôi, và tôi có thể nghe rõ tiếng Ngài. Ngài trò truyện với tôi, và tôi có thể tiếp chuyện với Ngài, hiểu được tâm ý, và dùng lý trí con tim đáp trả với tất cả tình yêu và cuộc sống.
Ngài đã khoác lên vai tôi những khí cụ cần thiết, và tôi biết tôi đã trở thành người chiến sĩ của Chúa Kitô. Ngài đã chiến đấu cho tôi, hy sinh chịu chết vì tôi, và còn sống mãi trong tôi, yêu thương tôi, và bảo vệ tôi. Mối tình của Ngài dành cho tôi quá vĩ đại, cao siêu, và còn biết bao điều không thể kể xiết.
Sau khi đã trải qua những chặng đường chông gai bão tố và nhiều biến cố thăng trầm trong cuộc sống, tôi mới khám phá và chợt hiểu ra điều này về Chúa Giêsu: Ngài là một Thiên Chúa yêu thương, một Người Bạn tuyệt đối trung thành, và một Ông Chủ rất đáng kính phục và quý mến. Ngài đã đến với tôi, đi vào cuộc đời tôi, và sẽ sống mãi trong trái tim tôi. Đối với tôi bây giờ thì Ngài là tất cả bởi vì Ngài là hơi thở, là sức sống, là nguồn vui, và là hy vọng của tôi. Hơn nữa, Ngài còn là đích điểm để tôi hướng tới, là ánh sáng dẫn lối tôi đi, là động lực thúc đẩy việc tôi làm, và là mục đích để tôi yêu thích cuộc sống. Điều tôi cảm thấy thích thú nhất là được sống phút giây hiện tại bởi vì trong mỗi khoảng khắc tôi biết chắc Chúa đang hiện diện, trong mọi hoạt động có Chúa luôn trợ giúp, và trên các nẻo đường có Chúa cùng đồng hành. Hạnh phúc của tôi bây giờ là chính Chúa, một món quà thật cao cả, một phép lạ quá tuyệt vời. Hỡi trời cao hỡi biển sâu, hãy cùng tôi chúc tụng Thánh Danh Người, vì Đức Kitô là Người Tình muôn thuở, đã có mặt hôm qua, đang hiện diện hôm nay, và còn tồn tại cho đến thiên thu vạn đại. Amen.
20-11-2014 * Lm. Gioan Hà Trần
|