VIỆC KÊU GỌI NHÓM
MƯỜI HAI THEO TIN MỪNG GIOAN.
Trong chương 1, câu 35-51, Gioan
trình bày việc kêu gọi năm môn đệ: Anrê, một
môn đệ không tên, Phêrô, Philipphê và Nathanaen. Ngoài ra, ông còn
nêu tên Giuđa Iscariôt: thêm một Giuđa nữa và Tôma. Dù
rằng đôi khi ông có nói đến nhóm Mười Hai
(6,67; 20,24), nhưng trong Tin Mừng không thấy có danh sách
nhóm Mười Hai như trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Việc kêu gọi các môn
đệ đầu tiên, nơi Gioan, rất khác với
điều mà các Tin Mừng Nhất Lãm trình thuật cho
chúng ta, theo đó Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đang quăng chài
xuống biển thì Chúa Giêsu đến kêu gọi các ông.
Nơi Gioan, các người được kêu gọi
đầu tiên trước hết là các môn đệ
của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả
được huấn luyện sống đời tu trì
(Mc 2,18; Lc 5,33; 11,1). Mt 11, 2-6 thuật lại Gioan Tẩy
Giả, lúc đang ngồi tù, đã sai vài môn đệ
của mìhh đến hỏi Chúa Giêsu. Thế nhưng
chỉ có một thánh sử Gioan trình thuật việc
một số môn đệ của Gioan Tẩy Giả
chuyển qua đi theo Chúa Giêsu. Hình như Gioan có sẵn
những thông tin trực tiếp về những mối quan
hệ giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Thực
vậy, ông ám chỉ đến một hoạt động
có thể có của Chúa Giêsu như làm phép rửa (Ga 3,22; 4,1-2).
Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả đã có thể là thành viên
của phong trào thanh tẩy rất phổ biến suốt
thể kỷ I và xuất hiện như một phong trào
canh tân chống lại nền văn minh, mang tính
đặc sủng và phổ quát. Rõ ràng Gioan muốn lưu
ý rằng bây giờ Gioan Tẩy Giả phải lu mờ
đi trước Đấng mà ông có sứ mạng loan
báo.
Kể từ đây cho
đến chương 2, câu 12, thánh sử miêu tả, ngày
qua ngày, diễn tiến đức tin của các môn
đệ vào Chúa Giêsu. Ông đã tập trung làm một bản
tóm lược về Chúa Kitô, theo nhiều tước
hiệu của Chúa Giêsu: Rabbi và Mêsia (35-42); Đấng mà
sách Luật và các ngôn sứ nói tới: Con Thiên Chúa và Vua Israel (43-50); Con
Người (51). Cuối cùng ở 2,11, “Chúa Giêsu bày tỏ
vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào
Người”. Một diễn tiến như thế không thể
thực hiện trong vài ngày: các Tin Mừng Nhất Lãm trình
luật cho chúng ta một cách thực tế hơn việc
khai sinh đức tin của các môn đệ khó khăn và
trì trệ như thế nào. Về điểm này, các Tin
Mừng đó sát thực hơn với điều gì đã
phải xảy ra.
HAI
MÔN ĐỆ (cc. 35-49)
Gioan Tẩy Giả tuyên bố ông
chỉ là tiếng người hô loan báo Chúa đến:
“Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải
lu mờ đi” (3,30). Từ đó ông đi đến
kết luận bằng cách hướng hai môn đệ
của mình đến với Chúa Giêsu. Lần thứ hai,
ông lên tiếng nói về Chúa Giêsu như “Chiên Thiên Chúa”.
Tước hiệu này nhất định hấp dẫn
trong cộng đoàn của Gioan Tẩy Giả (và cả
trong Giáo Hội), bởi vì nó khích động sự tò mò của
hai môn đệ đối với Chúa Giêsu và khiến
họ lìa bỏ Thầy mìhh để theo Chúa Giêsu. Một
trong hai người là Anrê (1,40). Còn người kia không
được nêu tên. Nhiều người cho rằng có
thể đó là người môn đệ được
Chúa Giêsu thương mến, Gioan, con ông Giêbêđê.
Bốn câu tiếp theo rất súc
tích bởi vì chúng dẫn nhập Tin Mừng nhiều
chủ đề quan trọng.
Đây là sự gắn bó
đầu tiên với Chúa Giêsu trong Tin Mừng: theo nghĩa
này, quả là hệ trọng.
Ta gặp được từ
ngữ đặc trưng miêu tả sự gắn bó
với Chúa Giêsu: “ Anh hãy theo Tôi” (các câu 37,38,40,43). Ta sẽ
gặp lại từ này trong 8, 12; 10,4.27; 12,26; 13,36;21,19.22.
Sự gắn bó với Chúa Giêsu
không chỉ là kết quả từ sự gợi ý của
Gioan Tẩy Giả. Trước đó còn có sự tự do
lựa chọn và lời Chúa Giêsu kêu gọi các môn
đệ. Gioan chỉ là một người trung gian.
Đối với hai môn đệ đang tìm hiểu (Các
anh làm gì thế?). Chúa Giêsu bảo họ đến xe
chỗ Người ở để chính Người ban
tràn đầy điều họ trông đợi (xem 15,16).
Môn đệ là người
“ở lại” với Chúa Giêsu. Động từ “ở
lại” được dùng ba lần ở đây.
Đối với Gioan, đó là một từ ngữ thần
học đánh dấu đức tin dược thực
hiện và sự dứt khoát gắn bó với Chúa Giêsu (xem
ví dụ 6,56; 8,31; 10,40; 15,4). Tiến trình hình thành
đức tin là như thế đó: đến với Chúa
Giêsu, xem chỗ Người ở, ở lại với
Người.
Hai môn đệ ở lại
với Chúa Giêsu từ khoảng bốn giờ chiều.
Nhưng lại không xác định lý do (thời
điểm ngày Sabát?); sự kín đáo này góp phần
tạo cho bài trần thuật một chiều kích huyền
nhiệm mà gợi mở: mỗi tín hữu đều
được mời gọi thực hiện một
tiến trình như vậy. Tin thường thông qua
những trung gian loài người. Nhưng mà điều
cốt yếu hệ tại ở lời kêu gọi
của Chúa cũng như ở sự tự do và bằng
lòng gắn bó với Chúa Giêsu. Câu kế tiếp (1,41) giúp
chúng ta hiểu được lúc bấy giờ hai môn
đệ nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia
nghĩa là Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói
tới (1,45).
CUỘC
GẶP GỠ ÔNG SIMON PHÊRÔ (cc. 40-42)
Dù các tình huống thế nào
đi nữa (Phêrô nhờ qua trung gian Anrê, Nathanaen nhờ qua
Philipphê, còn Philipphê được gọi trực tiếp),
thì luôn luôn chính Chúa Giêsu khởi xướng bằng cái nhìn
thích đáng chính lời nói quyết định của
Người kêu gọi và xét xử mọi người.
Thánh sử hoàn toàn không nói gì về sự tiếp nhận
của Phêrô. Ông đặc biệt chú ý đến lời
Chúa Giêsu loan báo cho Phêrô rằng ngày kia ông sẽ nhận
một tên mới: “Kêpha”. Làm như vậy, thánh sử
hướng đến hai mục tiêu: trước tiên,
như ông thường làm, nhấn mạnh quyền năng
của Chúa Giêsu tỏ hiện ở đây như
Đấng mặc khải; tiếp theo, đặt
để Phêrô ngay từ bước đầu trong tư
thế lãnh đạo, ngài sẽ là đại diện
của nhóm Mười Hai (6,67) và là mục tử của
đoàn chiên (chương 2). Chính với Phêrô mà Chúa Giêsu
ngỏ lời đầu tiên đầy ý nghĩa theo Tin
Mừng Gioan.
|