Họ đến và ở
lại với Người
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Được công
bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu
kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu
bật sự bắt đầu một giai đoạn
mới với sự xuất hiện của Đức
Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo
Người.
Mở đầu bài
Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định
thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin
Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang
đứng với hai người trong nhóm môn đệ
của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự
kiện người Do Thái cử người đến
chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan
lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm
trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng
ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển.
Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất
cứ một động từ nào diễn tả sự di
chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông
chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu
bắt đầu sứ mạng của Người.
Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi
tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì
ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó
nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây
giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông
là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ
đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa
của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn
đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”,
chứng tỏ đã có cả một nhóm đông
người đón nhận lời giảng dạy và phép
rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai
người môn đệ này của ông đang đứng
đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có
một sự khác biệt: ông Gioan đã biết
Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.
“Thấy Đức
Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên
Chúa”
(c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng
rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy
Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay,
vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức
Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời
ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi
vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía
sau rồi. Đó là thời khắc của một sự
thay đổi quan trọng, thời điểm chấm
dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan
báo đã bắt đầu hoạt động của
Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó,
ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ
của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết
Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho
họ thấy một cách cụ thể nội dung mà
sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện
đang hướng đến.
“Hai môn đệ nghe
ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo
Đức Giêsu” là một thuật ngữ được
áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43;
8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của
ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ
trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ
đã lập tức lấy quyết định dứt
khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy
họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông
Gioan đương nhiên không hề phản đối
quyết định của hai môn đệ, trái lại, có
lẽ ông rất vui mừng trước quyết
định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là
Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho
thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là
Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi
trước mặt Người. Ai cưới cô dâu,
người ấy là chú rể. Còn người bạn
của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng
hớn hở vì được nghe tiếng nói của
chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy
bây giờ đã trọn vẹn. Người phải
nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”
(3,28-30).
Vậy hai môn
đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức
là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của
họ đã được bắt đầu với
việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu,
nhưng chưa đạt đến đích nếu không có
sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ
đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi
họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng
và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con
người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì
thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái
gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi
Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho
họ.
Họ đáp:
“Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở
đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng
một tước hiệu đầy kính trọng, và là
cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người
có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị,
rằng Người có thể cho họ biết những
điều họ chưa biết. Họ vốn là môn
đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn
cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông
chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang
đến.
Đương
thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ
không chỉ là tương quan giữa người
truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và
chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống
của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế,
trong ước muốn làm môn đệ của Đức
Giêsu, hai người đồ đệ này muốn
biết Người sống ở đâu. Chắc chắn
đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh
cũng như cách thức sống) khác với của ông
Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời
hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một
lời thưa với Đức Giêsu về quyết
định của họ rời xa vị tôn sư của
giai đoạn cũ để đến sống
dưới ảnh hưởng của Người.
Quyết định này hoàn tất sự đoạn
tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử
hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi
đó cũng có giá trị của một lời xin
Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của
Người.
“Người bảo
họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời
trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời
hỏi của các ông. Người đưa ra một
lời mời gọi rằng chính họ hãy đến
để trải nghiệm một cách cụ thể và
thực tế cuộc sống chung với Người
trong tư cách là đồ đệ của Người.
Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho
câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn
đệ của Đức Giêsu, trước hết,
cần phải bước vào trong vùng sự sống
của Người, nơi Người đang sống.
“Họ đã
đến xem chỗ Người ở, và ở lại
với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng
giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng
của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa
và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực
tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết
định cuối cùng là ở lại với Đức
Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn
đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu
sống. Như thế là bắt đầu xuất
hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia,
cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy
vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho
Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và
sự thật ”(c.14). Rõ ràng đây là một thời
khắc quan trọng.
“Lúc đó vào
khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của
chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách
tính của người Do Thái, đó là thời điểm
cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới,
vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều
của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới
sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu
cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của
dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân
cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và
đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng
nhóm của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simôn
Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và
đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình
là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là
Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê
với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông
cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho
những người khác biết về Người.
Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “
trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu
với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người
khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan
giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi
theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công
thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp
Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)». Chắc
chắn ông Simôn là một trong số những người
đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng
Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn
rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan
báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã
kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện
rồi.
Quan niệm về
“Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần
được giải thích trong quy chiếu về hai
sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là
Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác
giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn
dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng
Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc
Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết
của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự
chết. Người sẽ khai mở một giao
ước mới,thay thế các thiết chế của
giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan
niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu
nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu
(1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong
Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải
nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi
Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em
trai mình.
Ông Anrê đã nhấn
mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải
như một trải nghiệm cá nhân đơn
độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn
các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”.
Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một
trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.
“Rồi ông Anrê
dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức
Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ
được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng
kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông
thụ động để cho ông Anrê dẫn đến.
Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu
nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói
một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.
Đức Giêsu nhìn
ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái
nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông
Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố
“Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu
đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự
như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh
là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển
chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận
định.
Đức Giêsu xác
định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga
đặt mạo từ trước hạn từ “con”.
Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân
phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác
giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không
thể là con trai duy nhất của ông Gioan được).
Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến
đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy
Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp
nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc
về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng
khác, ông chưa hề được nghe chứng từ
của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề
đi theo Đức Giêsu như hai người môn
đệ kia.
Rồi Đức
Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được
gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy
nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá
phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá,
tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy
Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu
đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ
Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác
giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số
trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).
Cuộc gặp
gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là
một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt.
Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay
bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi
theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ
động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ
lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi
sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề
giới thiệu Người với bất cứ ai, khác
hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ
đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu
gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy
niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến
cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba
lần tuyên bố về tình yêu của ông đối
với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức
Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ
với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp
gỡ.
Rất nhiều khi
trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được
may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng
rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông
Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân
vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp
dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng
có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng
đá…
|