CÁC MÔN ĐỒ TIÊN KHỞI
Chú giải của Giáo Hoàng Học
Viện Đà Lạt
CHÚ
GIẢI CHI TIẾT
“Gioan Tẩy giả còn
đứng đó với hai trong nhóm môn đồ của
mình": Về sự hiện hữu của nhóm môn
đồ thường trực quanh Gioan Tẩy Giả, xem
Mc 2,18 tt, Mt 11,2; 14,1; Lc 1,1; Ga 3,25. Lát nữa, bản văn
sẽ xác định một trong hai môn đồ là Anrê, anh
của Simon (câu 41); lai lịch của môn đồ kia vẫn còn bí ẩn. Có lẽ là "môn
đồ Chúa Giêsu yêu dấu" (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20),
tức Gioan, con ông Giêbêdê, người được
truyền thống cho là tác giả Tin Mừng thứ 4 và
muốn giữ tính chất vô danh của mình dưới
cách gọi đó.
"Hai môn đồ... đi theo Chúa Giêsu": Lời tuyên bố của Gioan
Tẩy giả đã khiến hai ngươi quyết
định rời bỏ sư phụ mà theo Chúa Giêsu.
Một lần nữa, như trường hợp Samuen,
ơn gọi của họ đã được gợi lên
cho một kẻ khác, do một người không phải là
"ánh sáng", nhưng là "chứng nhân ánh sáng" (1,8;
3,3) Chẳng một chi tiết giai thoại hoặc tâm lý,
chẳng một chi tiết về nơi chốn, hoàn
cảnh hay tâm tình các nhân vật người kể lã thu tóm
tất cả trong một lược đồ giản
đơn, với những ghi chú và đối thoại
vắn gọn.
"Hãy đến mà xem,
Người bảo họ": Chúa Giêsu chẳng muốn cho
một chỉ dẫn địa hình. Nói cách
khác, không thể biết Chúa Giêsu "ở" đâu
nếu không đích thân “đến xem" Người.
Động từ hy lạp “thấy"
được dùng ở đây (hoàn) không chỉ nói lên
việc xem thấy thể lý (mà người ta vẫn
thường diễn tả qua tiếng emblopein (ngó) như
ở c.36). Nó bao hàm sự nhận
thức và thấu hiểu một thực tại thiêng
liêng. Nhưng nhận thức và thấu
hiểu này đòi hỏi một sự dấn thân
trước. Câu “Ai từ chối tin vào Con sẽ
chẳng thấy sự sống" (3,36)
hiểu theo ý nghĩa như vậy. Thành ra
"thấy" không có nghĩa là chứng kiến từ
bên ngoài một quang cảnh, nhưng chính là kết quả
của cuộc hành trình đi theo Chúa Giêsu: "Phàm khi
trở lại với Chúa, màn mới được
cất đi " (2Cr 3,16).
“Họ đã lưu lại
với Người": Đây là giai đoạn
đầu của một cuộc sống chung
sẽ được triển nở trong sự hiệp
thông sâu xa nhất: Hãy lưu lại trong Ta như Ta trong các
ngươi. Như cành nho không thể tự
sinh trái nếu không lưu lại trong thân nho, thì các
ngươi cũng vậy, nếu không lưu lại trong
Ta" (15, 4).
Lúc đó khoảng chừng
giờ thứ mười!: Với mỗi ưu tư
đặc biệt luôn ghi chú chính xác những khoảng
thời gian (4,25; 18,28; 19, 14. 20, 19), Gioan bảo lúc đó là
chừng giờ thứ mười (theo lối phân chia
vận hành của mặt trời thành 12 giờ từ bình
minh đến hoàng hôn), tức lối 4 giờ chiều.
Ghi nhận này phải chăng là một hồi
tưởng cá nhân hay một chi tiết biểu
tượng? Trong vài bản văn Cựu ước hay Do
thái giáo đương thời, số 10 tượng
trưng con số hoàn hảo, nên giờ thứ mười
ở đây có lẽ là giờ của sự hoàn thành và
đánh dấu khởi đầu công việc của Chúa
Giêsu. Thật vậy, ở 11,9, ngày là
một hình ảnh đặc trưng thời Gioan sứ
vụ tại thế của Chúa Giêsu (x. 9,4t; 12,35).
“Anrê, em của Simon Phêrô, là
một trong hai...": Tên Hy lạp Andreas, cũng
như tên Simon (là cách viết theo hy ngữ của tên Himéon),
chứng tỏ hai anh em có nguồn gốc hy lạp.
Đúng vậy, hai anh em là người vùng Bethsaiđa-Guilia,
ngày nay là Et-Tell, phía đông bắc hồ Tibêria, trong
đồng bằng được con sông El-Ebtebah
tưới gội, thuộc quyền Phillp quận
vương. Những hoài vọng- thiên sai
vẫn còn sống động ở đấy
Người Galilê luôn được chú ý vì lòng nhiệt
thành của họ. Lời rao giảng
của Gioan Tẩy giả đã vang dột đến
miền này và ông có nhiều môn đồ người Galilê.
"Lúc ban sáng": cách
đọc này không chắc. Nhiều thủ sao đáng tin
(Sinaiticus, L.W ...) lại viết prôtos (premier, thứ
nhất). Nếu cách đọc sau là đúng, thì câu văn
muốn nói: Anrê là người thứ nhất đã tìm
gặp anh của mình (idion) -Hiểu ngầm rằng
người bạn của ông sau đó cũng đã tìm gặp
anh của y, tức là Gioan đã dẫn Giacôbê đến và
như thế là ở đây ta mặc nhiên có tên 4 môn
đồ đầu tiên được gọi tên bờ
hồ (theo Tin Mừng Nhất lãm). Cách đọc này có
vẻ tinh vi quá! Đa số các thủ
sao đáng tin khác (P.66, P.75, Sinaiticus col Úrecteur A. B. X...)
lại viết là prôton (trước tiên, d'abord). cách đọc này có ý nghĩa hơn và
được giải thích dễ dàng là để chỉ
cuộc gặp gỡ đầu hết trước
cuộc gặp gỡ ở câu 43 và 45: Trước tiên Anrê
đi tìm Phêrô (nghĩa là trước lúc làm bất cứ
chuyện gì khác), còn môn đồ kia làm chi, chẳng thành
vấn đề. Sau cùng, hai bản dịch cổ kính
nhất là bản Cựu Latinh và Cựu Syriát lại
viết mano (lúc ban sáng), tương ứng với prôi trong
nguyên bản.
Cách đọc này được
giữ lại trong BJ (Mollat), Boismard, pernard... Cho dù ít
được xác nhận, nó vẫn là tuyệt vời
nhất vì xác định thời gian theo tinh thần
của cả phần này, phần mà nhiều đoạn
khởi đầu với một ghi chú thời gian: ngày hôm
sau, lúc còn sớm hay lúc tảng sáng, Anrê vội vã đi thông
báo tin vui rằng ông đã khám phá được
Đấng Messia. Dẫu sao, về
phương diện phê bình văn bản, cách đọc
prôi quá ít chắc chắn, đến nỗi người ta
phải ngạc nhiên khi thấy vài tác giả nổi
tiếng chuộng nó hơn. Do đâu vậy?
Cách đọc Prôi hiển nhiên ám
chỉ là người ta đã đi sang một ngày mới
trong cái "tuần, khai mạc mở đầu Tin
Mừng Gioan: đúng thế, các câu đi trước xác
định công chuyện đã xảy ra vào lúc 4 gtờ
chiều, thành thử ghi chú "lúc còn sớm"
đưa về ngày hôm sau. Điều này giúp đạt
được con số bảy trúng cách tính thời gian
ở những trang đầu Tin Mừng Gioan, cách tính
gợi lên sự đối xứng biểu tượng
giữa lúc khởi đầu việc sáng tạo (trong 7
ngày) và lúc khởi đầu việc tái tạo do sự
xuất hiện của Chúa Giêsu. Theo ý chúng tôi, đấy là
lý do chính khiến Boismard và nhiều tác giả khác chọn
cách đọc prôi thay vì protos hay prôton. Nhưng
quả là luôn luôn nguy hiểm nên chỉ dựa vào những
giả thuyết thần học để chọn một
cách đọc cho bản văn. Trên quan
điểm khoa học, cách đọc prôi hầu như
không thể chấp nhận được. Nhưng
phải chăng vì thế mà phải loại bỏ sự
đối xứng thật hấp dẫn giữa Gioan và
Sáng thế, sự đối xứng được
tăng cường do việc Tin Mừng thứ 4 cũng
chấm dứt bằng một tuần lễ
được tính toán kỹ lưỡng? (Ta có thể so
sánh thêm: cuối tuần đầu tiên của sứ
vụ, “Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang người''
bằng việc làm phép lạ đầu tiên trong 7 dấu
chỉ thánh sử kể lại; cũng thế, cuối
tuần sau cùng của sứ vụ trần gian. Chúa Giêsu
"biểu lộ vinh quang" bằng việc hoàn thành
dấu chỉ thứ 7, dấu chỉ lớn nhất, là
cuộc phục sinh của Người): phải chăng
phải loại bỏ tính cách biểu tượng
tuyệt vời đó chỉ vì lý do là cách đọc prôi
không thể chấp nhận? Vài tác giả hình
như nghĩ vậy, nên đành hy sinh cách đọc
chắc chắn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi thiết
tưởng rằng có thể loại bỏ cách
đọc prôi để khỏi cưỡng ép bản
văn mà vẫn giữ được lối biểu tượng
như ta vừa trình bày.
Đúng thế, dù đọc
protos hay prôton, thì cũng phải có một quãng thời gian
giữa câu 39 là 43. Hình như Anrê và
người môn đồ vô danh đã đàm thoại lâu
giờ với Chúa Giêsu, khá lâu đủ để có
được xác tín hồ hởi rằng Chúa Giêsu là
Đấng Messias. Thế mà ta biết cuộc đàm
thoại đã chỉ bắt đầu từ 4 giờ
chiều và, đàng khác, rằng ngày tiếp theo
chỉ bắt đầu 2 giờ sau đó (vì ngày hôm sau,
theo người Do thái đương thời, là luôn
bắt đầu lúc mặt trời lặn). Thành ra
thực là hữu lý khi giả thiết cuộc đàm
thoại đã kéo dài trong đêm khuya và nhu vậy giai
thoại tiếp theo liên quan đến
Anrê và Simon có lẽ đã xảy ra vào sáng hôm sau. Và lúc đó Anrê vội vàng tìm anh trước khi làm
việc gì khác (cái chữ trước tiên này quay về
prôton là cách đọc đáng tin hơn cả). Như
vậy ta có thể giữ được cách tính 7 ngày, dù
phải loại bỏ cách đọc lúc ban sáng (prôi)
của BJ.
"Chúng tôi đã gặp
Đức Messia": "Gặp (heuriskein) sẽ
được lồng nhiều lần trong phần này và
phần kế tiếp (ch.2-4). Anrê "gặp" Phêrô, báo
với ông rằng họ đã "gặp" Đấng
Messia; cả hai gặp" Philíp, Philíp lại gặp
Nathanaen và báo tin là mình đã "gặp" Đấng
Messia. Việc lặp lại cùng một
động từ để diễn tả một thực
tại hoàn toàn khác với ý nghĩa thứ nhất của
động từ, chứng tỏ một cách nào đó
sự nghèo nàn của ngữ vựng Gioan. Tuy nhiên
việc này hình như muốn ngụ ý: sự gặp
gỡ và khám phá Đấng Messia khiến cho những ai
đã gặp được Người đều
muốn làm cho những kẻ mình gặp sau đó cũng
khám phá ra Người. Ở trong Tân ước, chữ
Messias (hy hóa chữ Mâsiah) chỉ được Gioan dùng
nơi đây và 4,25 thôi. Nhưng
thì thánh sử dịch ra Hy lạp là Christos.
"Ngươi sẽ được gọi là Kêpha":
Kêphas (hy hóa chữ kêphâ, tảng đá) là một tên biểu
tượng mà ý nghĩa sẽ được hiện rõ
về sau. Cũng như chữ rabbi (c.38) và Messias (c.41), tên
của Phêrô được trích dẫn bằng tiếng
Aram một cách ngoại thường, khiến chợt trong
đoạn văn này đã có đến 3 tiếng Aram. Ta
có cảm tưởng là Gioan suy nghĩ bằng tiếng Aram hay ít nhất
quen với những thành ngữ Aram.
KẾT
LUẬN
Trong trình thuật này có các yếu
tố chính của một cuộc trở lại: sự
gặp gỡ với đích thân Chúa Giêsu (chứ không
phải là một trần thuyết về (Chúa Kitô), sự
khám phá nơi Người một con người có cái gì
khác hẳn, và cuối cùng là sự thay đổi vận
mạng.
Ý
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. "Các ngươi tìm gì? (1,38). Trong Tin Mừng thứ 4, đây là
lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu: một câu
hỏi. Cũng là lời đầu tiên
Người ngỏ với chúng ta. Nó đưa chúng ta
về lại với chính mình, mời gọi, chúng ta sáng
suốt, tự do lựa chọn. Chúa Giêsu không để ta
đi theo Người lâu ngày chỉ vì lời chứng
của một kẻ khác (dù là của Gioan Tẩy giả),
vì hiếu kỳ hay vì thói quen; Người muốn ta
lưu tâm, ý thức, và vì thế Người hỏi ta:
"Các người tìm gì?". Dĩ
nhiên người biết ta tìm gì, nhưng trước khi
trả lời những thắc mắc hay khát vọng
của ta, Người bắt ta hãy ra khỏi sự lãnh
đạm, vô tình tự nhiên. Câu hỏi đầu tiên
Hội Thánh đặt cho ta khi lãnh bí tích Rửa tội
cũng tương tự: "con xin gì?” và ta đã thưa
"Xin đức tin". Đó cũng là điều là hai
môn đồ đã trả lời tự thâm tâm khi muốn
đi theo Chúa Giêsu đến nơi
ở củ a Người.
2. "Họ thưa
Người: Rabbi, Ngài ở đâu?". Lờl đáp trả của ta cũng phát biểu
dưới hình thức câu hỏi. Nhưng một
điểm căn bản bây giờ đã sáng tỏ: chúng
t.a tìm nơi Người lưu trú. Người là ai, chúng
ta còn chưa biết hay chúng ta chỉ lờ mờ linh
cảm: ít nhất là một vị thầy. Ta trực giác
tiên khởi của ta phải được xác
định hay đào sâu hơn; việc tiếp xúc
đầu tiên phải được bén rễ sâu trong
một mối thân tình càng lúc càng đậm. Kẻ
đối thoại gặp gỡ trên đường
trở thành vị thầy mà ta thăm hỏi nơi cư
trú, mà ta muốn đến làm môn đồ.
Trước hết, ta phải đi theo
Người tới nơi Người ở đã, rồi
con người của Người sẽ được
mặc khải cho ta.
3. Sau khi theo
Chúa Giêsu và ở lại bên Người một ngày, Anrê đã
thấy, đã gặp được kẻ ông đi tìm:
không phải một Rabbi, nhưng là Đấng Messia. Ông chẳng giữ riêng cho mình khám phá đó,
nhưng trở thành tông đồ thừa sai cho anh và
đem anh tới gặp Chúa (c.42). Không
một tranh luận nào giữa hai anh em, không một lý
luận nào của Anrê nhằm thuyết phục Simon,
nhưng chỉ là một lời quả quyết đơn
giản. Như Anrê đối với
Gioan Tẩy giả, Simon tín nhiệm vào em mình. Như
các môn đồ, đức tin của ta vào Chúa Giêsu
cuối cùng đặt cơ sở trên một cuộc
gặp gỡ thân tình với Chúa; nhưng đức tin
đó luôn khởi phát từ đức tin của một
người anh em, của một cộng đoàn gia đình
và Giáo Hội, từ sinh chứng của một
người ta tín nhiệm và mến yêu. Tín
nhiệm và đức tin là hai chữ cùng một gốc.
4. "Chúa Giêsu nhìn ông và bảo:
Ngươi là Simon, con của Gioan, ngươi sẽ
được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá" (c.42). Một cách dễ dàng, tức khắc, cái nhìn
của Chúa Giêsu thấu suốt nơi sâu thẳm của
con người mới đến. Ơn gọi
của kẻ này ngay từ phút đầu tiên đã
được xác định: ông đổi tên và như
vậy, theo quan điểm Thánh Kinh,
đổi cả nhân cách, cả con người. Ông trở thành kẻ Chúa Giêsu gọi tên Phêrô
(Đá). Đó là quyền ưu tiên tuyệt
đối của lời Chúa mời gọi trên tất
cả những thiên tư tự nhiên hay giải thích
chủ quan của con người. Cũng
thế, ngay từ lời đầu tiên Người
ngỏ với ta. Chúa Kitô biến
đổi ta tận gốc và, bắt lấy tương
lai ta ngay tức khắc và toàn diện mà có lẽ ta còn
chưa ý thức. Từ những Simon, những cá nhân
mang một nhãn hiệu như mọi người, chúng ta
nhận đức tin gọi đích thực, cá tính
độc đáo và sứ mệnh đặc biệt
của ta. Chúng ta trở thành kẻ phục vụ nơi
người: Kêpha, nghĩa là Đá, là nền tảng và
rường cột của Giáo Hội. Ai trong
ta dám đoán trước được điều này?
Khi gọi ta, Chúa Giêsu mặc khải cho ta biết
đối với Ngài ta là ai, có thể là ai, phải là ai:
là người tốt hơn và đẹp hơn ta
tưởng.
5. Đã lần nào ta có ý nghĩ
sẽ đưa một người đến gặp
gỡ Chúa Giêsu chưa? Như Gioan Tẩy
Giả, ta biết Chúa Giêsu là ai; như Anrê, ta đã gặp
Đấng Cứu thế. Ta có ưu tư để
đừng giữ riêng cho ta sự khám phá này không?. Để có thể mời
gọi một người trong anh em ta, có lẽ Chúa
đang chờ đợi ta đem họ đến
gặp Người.
|