Đức Giêsu chịu
phép rửa – Lm. FX. Vũ
Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo giáo sư G. Gnilka mà coi Mc
1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin
Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng”
(x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở
đầu và cuối đoạn). Bản văn 1,7-11 chúng ta đọc hôm nay liên kết
lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang
địa với việc Đức Giêsu chịu phép
rửa, khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Thật ra hai phần này biệt lập với nhau; chúng ta
thấy được điều này qua chi tiết
dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác
giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm
phép rửa trong sông Giođan. Tuy kể lại
phép rửa Gioan, bản văn lại không tương
ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu
của c. 5.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai
phần:
1) Lời loan báo của Gioan (1,7-8);
2) Phép rửa của Đức Giêsu (1,9-11):
a) Biến cố lịch sử:
Đức Giêsu chịu phép rửa (9-10),
b) Thị kiến khải huyền:
Cuộc thần hiển (10-11).
3.- Vài điểm chú
giải
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ
Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn
(imperfect), để diễn tả đây là một hoạt
động thường xuyên của Gioan. Chúng ta
đến đỉnh cao của đoạn văn này,
bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng
mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi (7): Có lẽ danh
xưng này ám chỉ đến Is 40,10
(“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với
sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”).
Sự tương phản giữa hai bên lớn đến
nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà
đây là công việc thấp hèn đến nỗi một
nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ
(sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- phép rửa (8): Cho dù Gioan có thuộc về phong trào
Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương
tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở
điểm cả hai phép rửa đều diễn tả
một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này
vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ
của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn
đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời
cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai
điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên
một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối
nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban
phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị
cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự
đến.
- trong Thánh Thần (8): Các bản
văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong
Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình
thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố
Triều Đại cánh chung của Thiên
Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm
đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan
với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ
hoạt động của Đức Kitô, mà không nói
đến phán xét. Nhờ đó,
Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh
Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên
trong.
- Hồi ấy (9): dịch sát là “trong những ngày
ấy”.
- tựa chim bồ câu (10): Cả ba TMNL
đều nói đến điểm này, với hôs
(“giống như”) để so sánh (riêng Mt dùng hôsei
để nhấn mạnh). Lc còn xác định rằng
Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình
dáng” (sômatikê eidei, “in bodily form”; x. Lc 3,22).
Tại sao con bồ câu lại trở
thành biểu tượng của Thần Khí? Chúng ta không có
câu trả lời rõ ràng. Rất có thể hành động
bay lượn của Thần Khí trên mặt nước
nguyên thủy trong St 1,2 đã gợi ra hình ảnh một
cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11),
nhưng bản văn ấy không nói là một con bồ câu
(trừ một bản văn thuộc truyền thống
kinh sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã
thả một con bồ câu, nhưng lại không hề
khẳng định rằng con bồ câu này là hình ảnh
của Thần Khí. Cha X. Léon-Dufour cho rằng con bồ câu có
thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14;
5,2) hoặc cuộc tạo dựng mnới (x. St 1,2).
Trong truyền thống Do-thái, con bồ
câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ
đến Israel, đặc biệt với Israel đang
lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15;
2,14; 5,2; 6,8) và cũng được nền văn
chương Ngụy thư hoặc kinh sư sử
dụng. Từ đó cha A. Feuillet cho rằng con bồ câu
đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng
trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính yếu
của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó là việc
thành lập Israel mới, cộng
đoàn hoàn hảo của thời đại ân
phúc. Vậy, điều được diễn tả không
phảu trự tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả
đối với Dân Thiên Chúa, khi Thần Khí hiện
diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ
Ngũ Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp
tượng trưng Thần Khí, mà là các ngôn ngữ mà các
tông đồ dưới ơn Thần Khí soi sáng, sẽ
nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng công việc phúc âm
hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép
Rửa diễn tả ý tưởng này là Dân thiên sai
phải chọn điểm khởi hành nơi bản
thần Đức Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của YHWH.
Giả thuyết này cũng hấp
dẫn, nhưng thật khó áp dụng vào bản văn Mc.
Hẳn là bản văn St 8,8 vẫn có
thể giúp ích: con bồ câu được thả ra mà không
có chỗ đậu, phải trở lại tàu Nôê, phải
chăng muốn nói rằng trong một thời gian dài,
Thần Khí không có chỗ đậu là một người
nào, cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện? Dù sao,
ít ra chúng ta có thể nói rằng Thần Khí rất gần gũi
với Đức Giêsu, trong tư cách là Đấng Mêsia
đi rao giảng Nước Thiên Chúa, và điều này
lại khiến chúng ta nhớ tới Is 42,1.
- ngự xuống trên
Người (10): Mt, Lc va Ga đều nói rằng Thần
Khí ngự xuống “trên” (epi; Mc: eis) Đức Giêsu. Các nhà
chú giải thường nghĩ đến Is 11,1-2a: “Từ gốc tổ Giesê, sẽ đâm
ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ
mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức
Chúa sẽ ngự trên vị này”.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói
về tiếng nói của người loan báo, hoạt
động của Gioan được mô tả như là
một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”;
“phổ biến” (kêryssein). Hành vi này đưa ông
đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ
(3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả
đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối
lập giữa phép rửa của ông với phép rửa
của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền
thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang
đến. Phép rửa của ông không phải
là một nghi thức có sức tha tội (Bí tích Rửa
tội), nhưng là phương thế giúp người ta
bày tỏ lòng thống hối và quyết tâm thay đổi
đời sống.
* Phép rửa của Đức Giêsu (9-11)
Phần này với
phần trên biệt lập với nhau. Chúng ta thấy
được điều này qua chi tiết dẫn
nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô
tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa
trong sông Giođan: tuy kể lại phép rửa Gioan, bản
văn lại không tương ứng hoàn toàn với các
từ ngữ và cách kết cấu của c. 5. Dường
như tác giả Mc quan tâm đặc biệt đến
miền Galilê; do đó, ngài đã nêu bật rằng
Đức Giêsu đến từ một miền khác
với miền xuất phát của các đám đông
đến với vị Tẩy Giả.
Bản văn này liên
kết một biến cố lịch sử với một
thị kiến khải huyền. Biến cố
lịch sử là phép rửa Đức Giêsu nhận bởi
tay Gioan. Thị kiến
khải huyền cho biết Đức Giêsu là ai. Người đến từ làng Nadarét. Đối với Mc, điều quan trọng là
làng ấy thuộc về miền Galilê. Nhưng Nadarét
lại được coi như địa điểm
từ đó Đức Giêsu đến “trong những ngày
ấy” (= “hồi ấy”, PVCGK). Chi tiết
mông lung về thời gian này, tuy quy về quá khứ,
lại đưa lại cho việc Đức Giêsu
xuất hiện một đặc tính long trọng.
Tại sao Đức Giêsu lại
đến chịu phép rửa bởi tay
Gioan, khi mà Người không có tội lỗi gì? Chính sứ
mạng của Người đưa Người
đến chỗ sẵn sàng liên đới với các
tội nhân, tự đồng hóa với họ. Tác giả Mc, cũng như hai tác giả Lc và Mt,
không muốn tường thuật cho chúng ta chuỗi các
biến cố đã xảy ra hôm ấy. Tác giả
chỉ muốn dạy chúng ta biết Đức Giêsu là ai
bằng cách vận dụng ba hình ảnh mà các độc
giả thời ngài hiểu rất rõ:
1) Hình ảnh “trời xé ra”. Hình ảnh này
nhắc đến Is 63,15-19: trong đoạn văn này,
vị ngôn sứ xin Thiên Chúa “xé trời mà ngự xuống”,
nghĩa là chấm dứt tình trạng thinh lặng của Ngài
và đừng ở xa cách Dân Ngài nữa. Ông
xin Thiên Chúa lại mở lòng ra và lại tỏ ra là bạn
hữu của nhân loại. Khi dùng hình
ảnh này, Mc muốn nói với chúng ta rằng cuộc
sống công khai của Đức Giêsu đánh dấu
khởi đầu cuộc hòa giải giữa trời và
đất, giữa Thiên Chúa và chúng ta.
2) Hình ảnh “con bồ câu” đưa chúng ta
trở lại với những gì đã xảy ra vào
thời gian Lụt hồng thủy (St 8). Vào
lúc đó, trời bị đóng lại và có sự thù
nghịch giữa Thiên Chúa và loài người. Con
bồ câu với cành ô-liu cho biết là sự sống đã
tái sinh trên mặt đất, nghĩa là Thiên Chúa đang thôi
giận loài người, hòa bình đã được
phục hồi.
3) Tại sao Thần Khí lại
được so sánh với một con bồ câu? Trong thời Cựu
Ước, YHWH ban quyền lực của Ngài cho các ngôn
sứ, làm cho các ngài nên can đảm và có khả năng
hoàn tất các nhiệm vụ Ngài ký thác (x. Is ch. 6; Gr 1,6-10). Vào ngày nhận phép rửa, Đức
Giêsu cũng đã được tấn phong và nhận
quyền lực đó để chu toàn
sứ mạng. Tại Israel,
từ lâu rồi, đã vắng bóng những con
người của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối
cùng đã qua đời cách đây 300 năm. Trời đã đóng lại, y như thể Thiên
Chúa không còn muốn nói với Dân Ngài nữa. Thần
Khí Đức Chúa giống như một con bồ câu bay
cùng khắp mà không tìm ra được một ai để
có thể đậu lên. Khi cho Thần Khí của Ngài
xuống trên Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy rằng
Ngài đã tìm ra con người theo ý Ngài,
và nay một lần nữa, Ngài lại ngỏ lời
với một con người.
Ngoài ra, có hai chi tiết cần
để ý vì có ý nghĩa thần học sâu sắc:
- Nơi Đức Giêsu chịu phép rửa là
bờ sông Giođan. Chúng ta đọc thấy trong
Cựu Ước rằng Dân Israel
được Giôsuê hướng dẫn, đã đi qua
sông Giođan trước khi bước vào Đất
Hứa. Ở đây Mc giới thiệu
Đức Giêsu như Giôsuê mới dẫn dắt Dân
mới của Thiên Chúa (trong tiếng Híp-ri, tên “Giêsu” cũng
là tên “Giôsuê”).
- Thời điểm Đức Giêsu nhận
Thần Khí (“khi Người vừa ra khỏi nước”,
chứ không phải lúc Người còn đứng trong dòng
sông, như nhiều bức họa diễn tả). Sau khi qua sông Giođan, Giôsuê được
đầy thần khí của Thiên Chúa để ông có
thể dẫn đưa Dân vào Đất Hứa.
Với Đức Giêsu cũng thế: khi vừa ra khỏi
nước, Người nhận Thần Khí cùng với
quyền lực của Thiên Chúa để có thể
hướng dẫn dân Thiên Chúa đi đến tự do.
Con đường đó thế nào, tác giả Mc sẽ
dần dần viết ra.
+ Kết luận
Rất có thể giai thoại này là
một kỷ niệm về tình trạng căng thẳng
giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn
đệ của Đức Giêsu: họ tranh cãi để
xem vị Thầy nào cao trọng hơn. Các môn đệ
Gioan cho rằng vị Tẩy Giả cao trọng hơn vì
đã ban phép rửa cho Đức Giêsu; còn các môn đệ
của Đức Giêsu thì khẳng định rằng chính
Đức Giêsu mới là Con Thiên Chúa và có Thần Khí chan hòa.
Dù sao, ở đây còn có một bài học khác
nữa. Các Kitô hữu tiên khởi khó mà
chấp nhận được rằng Đức Giêsu
lại chịu phép rửa. Phép rửa của Gioan là
đễ diễn tả quyết tâm thống hối, và do
đó người Pharisêu, vì nghĩ rằng họ công chính,
chẳng bao giờ nghĩ rằng họ cần phải
nhận phép rửa. Thế mà Đức Giêsu lại
nhận phép rửa, khi mà Người là Con Thiên Chúa,
Người hoàn toàn trong sạch! Đức Giêsu đã
chịu phép rửa ngay lúc bắt đầu cuộc
sống công khai, thật ra là để đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi,
đồng hóa với họ. Đấy là
một chọn lựa của Người, của chính
Thiên Chúa.
Sau lễ Giáng Sinh,
phụng vụ nói đến khởi đầu cuộc
sống công khai của Đức Giêsu. Đức Giêsu chính
là Người Tôi Trung cùa Chúa Cha; Người sẽ
đưa lại một quan hệ được
đổi mới giữa chúng ta với Thiên Chúa
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô
hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với
anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng
quan hệ của mình với “Đấng đang
đến”, để khiêm tốn và trung thực giới
thiệu về Người như là Đấng đã
đang có mặt trong lịch sử loài người.
2. Đức Giêsu đã sẵn sàng
đứng vào hàng các tội nhân, tự đồng hóa
với họ, trở nên một người như họ,
trong khi Người hoàn toàn trong sạch. Chúng ta, là những
người có tội, phải chăng chúng ta lại xa cách
anh em y như thể sợ rằng không ai biết cho
sự lành thánh của chúng ta! Chúng ta có
biết đồng cảm với những người có
cuộc sống không thành công chăng? Một Kitô
hữu có được phép lên án
người khác chăng? Thầy chí thánh chúng ta đi theo không bao giờ trách mắng những
kẻ tội lỗi, Người đồng cảm
với họ, Người bảo vệ họ và ngay
từ đầu, Người đứng vào hàng ngũ
của họ. Đấy là những
điểm khiến các môn đệ Đức Giêsu
phải suy nghĩ.
3. Chúng ta thuộc về đoàn dân
mới của Thiên Chúa, đoàn dân đang tiến
bước, có Đức Giêsu là Vị thủ lãnh
đầy Thần Khí. Thầy chí thánh đang
dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta phải
bước theo Người với cung
cách nào? Tác giả Mc sẽ trả lời các câu hỏi này
cho chúng ta dọc theo năm phụng
vụ với Tin Mừng của ngài, và mời gọi chúng
ta can đảm bước theo Đức Giêsu, là “con
đường” đưa chúng ta về với Thiên Chúa.
4. Chúng ta cũng đã nhận phép
rửa tội, chúng ta cũng có Thánh Thần, chúng ta cũng
có chức năng vương đế. Chính vì thế,
chúng ta phải biết cộng tác với Đức Giêsu,
Đấng hướng dẫn chúng ta, bằng cách chế
ngự tính mê tật xấu của riêng mình, đồng
thời giúp anh chị em chúng ta thắng vượt các
trở ngại khiến họ không thong dong bước theo Đức Giêsu được.
5. Thánh giám mục Maximô thành Turinô
(?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh
như sau: “Hôm nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép
rửa. Người đã muốn rửa mình
trong dòng nước Giođan. Có lẽ có người
sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao
Người lại muốn được ban phép rửa?’
Vậy xin nghe đây. Đức Kitô
được ban phép rửa không phải để
được nước thánh hóa, nhưng để chính
Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành
động cá nhân các dòng nứơc Người chạm
tới. Vậy ở đây là việc thánh
hiến nước hơn là thánh hiến Đức Kitô.
Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế
được rửa, tất cả các dòng nước
trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta;
nguồn được thanh tẩy là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc
sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là
người đầu tiên bước đến phép
rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại
bước đi theo Người.
Và ở đây tôi hé
thấy một mầu nhiệm. Cột lửa
lại đã không đi trước qua Biển Đỏ
để khuyến khích con cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã
đi qua nước trước tiên để vạch ra
con đường cho những người theo
sau. Theo chứng từ của thánh tông
đồ Phaolô, biến cố này đã là một biểu
tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là một thứ phép rửa
trong đó người ta được bao phủ bởi
các đám mây và được nâng đỡ bởi các làn
nước. Và tất cả những điều
đó đã được hoàn tất bởi cũng
một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng bây giờ
đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột
là thân thể Người, như Người đã đi
trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa.
Cũng cái cột ấy, xưa kia đã
ban ánh áng cho mắt những người bước đi,
nay ban ánh sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa,
cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước
một con đường vững chắc, bây giờ
cột ấy đang củng cố các bước chân
đức tin trong cuộc thanh tẩy này”.
|