Thiên
Chúa tôn vinh bậc làm cha mẹ --- Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thiên Chúa làm người là để
“phục hồi phẩm giá con người cách kỳ
diệu” (lời nguyện Thánh lễ Ban Ngày), để
từ con người, cuộc phục hồi ấy
phải tiến tới những lãnh vực khác như gia
đình, cộng đồng và toàn thế giới. Chính vì thế, ta không lấy làm lạ khi thấy
lễ Thánh Gia Thất được cử hành vào Chúa
Nhật ngay sau lễ Giáng Sinh. Nếu Chúa Giêsu là con
trưởng của một nhân loại mới, thì Thánh Gia
Thất cũng phải là khuôn mẫu cho các gia đình trong
nhân loại. Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay sẽ giúp ta
hiểu thế nào là một gia đình trong đó có Thiên Chúa
và con người sống chung với
nhau.
1. Thiên Chúa
tôn vinh bậc làm cha mẹ
(Bài đọc Cựu Ước – Hc
3:2-6,12-14)
Con Thiên Chúa xuống thế làm
người và sống chức phận làm người con
trong một gia đình. Mục đích là để
đổi mới quan hệ giữa người con
đối với bậc cha mẹ. Sự hiện diện
của Chúa Giêsu, người con của gia đình Na-da-rét,
nói lên lối sống gương mẫu của kẻ làm
con cái. Đối với Thánh Gia Thất, những lời
sách Huấn ca không chỉ là những lời khuyên nhủ,
nhưng nói lên phẩm giá của cha mẹ Chúa Giêsu là Mẹ
Ma-ri-a và thánh cả Giuse. “Đức Chúa làm cho
người cha được vẻ vang vì con cái, cho
người mẹ thêm uy quyền đối với các
con”. Đời sống vâng lời và tôn kính của
Chúa Giêsu đối với cha mẹ Người chính là cách
Thiên Chúa dùng để nhắc nhở các người con có
bổn phận phải làm sao cho cha mẹ mình
“được vẻ vang và thêm uy quyền”. Thánh Giuse và
Mẹ Ma-ri-a đã thực sự được vẻ vang
và thêm uy quyền là vì “Hài Nhi ngày càng
lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và
hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Sau chuyến lên Giê-ru-sa-lem lúc
Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, “Người đi
xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và
hằng vâng phục các ngài… Còn Đức
Giêsu, ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng
như mọi người thương mến” (Lc 2:51-52). Tóm lại, qua Chúa Giêsu, Thiên
Chúa muốn phục hồi chỗ đứng của
những bậc làm cha làm mẹ.
Đó chẳng phải là
điều ta luôn mong mỏi, nhất là trong những gia
đình của xã hội văn minh cấp tiến hôm nay hay
sao? Con cái không còn là một lý do để người
cha được ngẩng mặt lên với đời
nữa. Trái lại, con cái nhiều khi là một nỗi
tủi nhục cho cha mẹ, chẳng những chúng không
đem lại niềm vui hay ủi an cho các ngài, mà trái
lại chỉ gây phiền lụy và lo lắng cho các ngài. Là
gương mẫu cho các người con, Chúa Giêsu đã
sống vâng phục cha mẹ Người. Chắc
chắn ta phải kết luận rằng sở dĩ Chúa
Giêsu luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha là vì Người đã
học vâng phục Mẹ Ma-ri-a và thánh Giuse trước.
Sự vâng phục đã được rèn
luyện dưới mái nhà Na-da-rét và đạt tới cao
độ khi Chúa Giêsu tỏ ý vâng phục trong Vườn
Ô-liu và trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
“Cha ơi, xin đừng làm theo ý con, mà
xin theo ý Cha” (Lc 22:42), và
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Trong gia đình ngày nay,
nhiều khi sự vâng phục của con cái đã bị bóp
méo. Người ta coi đó là cách hạn chế
sự phát triển của con người. Sự
bất vâng phục còn được luật pháp hỗ
trợ, thí dụ như tại Hoa-kỳ. Nhiều
đứa con chỉ dài cổ mong chóng đến 18
tuổi để được tự do, muốn làm gì
thì làm, một thứ tự do ấu trĩ nhất. Thử hỏi có khi nào người ta dám
đặt lại vấn đề vâng phục trong gia
đình ở Hoa-kỳ không? Chắc là không và thật
đáng buồn thay! Hãy nhìn về Thánh Gia
Thất Na-da-rét mà dạy và học bài học vâng phục
của Chúa Giêsu.
2.
Đời sống mới của gia đình: sống theo tinh thần của Chúa
(Bài đọc Tân Ước – Cl 3:12-21)
Thánh Phaolô
viết thư cho tín hữu Côlôxê. Ngài coi cộng đoàn Côlôxê như một gia
đình và đưa ra những lời khuyên thực tế
áp dụng cho đời sống cộng đoàn. Tuy
nhiên, để thực hiện được một gia
đình cộng đoàn gương mẫu, mỗi Ki-tô
hữu cần phải thấm nhuần những nhân
đức luân lý căn bản. Sau khi trình bày những nhân
đức căn bản này, thánh Phaolô muốn họ
đem những nhân đức ấy vào đời sống
gia đình. Do đó, ngài đã chỉ thị cho mỗi phần
tử trong gia đình, từ cha mẹ, vợ chồng, con
cái cho tới kẻ ăn người ở trong nhà,
phải sống sao để thể hiện
được những đặc nét của một gia
đình gồm “những người được Thiên
Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương”.
Những đặc nét đó là lòng thương cảm, nhân
hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, tất
cả đều được biểu lộ qua
những hành vi chịu đựng, tha
thứ và bác ái trong khi đối xử với nhau.
Những nhân đức luân lý căn bản nói trên một
khi đã được thực hành trong đời
sống gia đình, thì cũng giúp ta sống quan hệ
tốt đẹp hơn đối với Chúa. Một gia đình có được những nhân
đức trên sẽ thăng tiến đến mức
độ có thể giúp đỡ khuyên bảo nhau sống
tốt lành và một lòng phụng sự Chúa.
Nếu
thực sự sống những nhân đức gia đình
thì việc người vợ phục tùng chồng không
phải là cảnh chồng chúa vợ tôi mà là cách biểu
lộ lòng yêu thương sâu xa, việc người
chồng yêu thương vợ không phải là tỏ ra uy
quyền mà là cách nhận biết phẩm giá và sự cao quý
của vợ, việc con cái vâng lời cha mẹ không
phải là sợ hãi cha mẹ mà là cách nói lên lòng tôn kính và yêu
mến đấng sinh thành. Nói tóm lại, nếu đem
những nhân đức luân lý căn bản vào đời
sống gia đình, chúng sẽ thay đổi mọi quan
hệ giữa những phần tử thuộc gia đình
phản ánh những đường nét và tinh thần
của Thiên Chúa.
3. Dù trong
hoàn cảnh nào, gia đình luôn gắn bó với Chúa và
với nhau
(Bài Tin Mừng – Mt 2:13-15.19-23)
Gia đình
sống theo tinh thần của Chúa lúc nào
cũng giữ được mối hài hòa gắn bó, khi
vui cũng như lúc buồn. Bài Tin Mừng cho
ta thấy Thánh Gia Thất đã ứng phó thế nào khi các
ngài gặp hoạn nạn. Sau khi các nhà chiêm tinh
phương Đông ra về, vua Hê-rô-đê nổi giận
tìm cách giết Hài Nhi. Được
sứ thần Chúa báo tin, thánh Giuse “liền trỗi dậy,
và đang đêm, đưa Hài Nhi và
mẹ Người trốn sang Ai-cập”. Trước
một cuộc xuất hành xa xôi và không biết ngày về,
ta thường chuẩn bị kỹ càng. Dầu vậy, Thánh Gia Thất làm gì có thời
giờ để chuẩn bị. Điều cần
thiết là phải làm sao bảo toàn tính mạng cho Hài Nhi và mẹ Người. Ta có thể
tưởng tượng ra khung cảnh thánh Giuse chuẩn
bị cấp tốc cho một chuyến đi sang tận
Ai-cập. Chuẩn bị mấy đi
nữa cũng chỉ có hạn. Phương tiện
chuyên chở căn bản là con lừa. Đồ
đạc phải là những đồ dùng cần
thiết nhất. Tuy nhiên trang bị
tối cần vẫn phải là lòng tin, hoàn toàn tín thác vào
sự quan phòng của Thiên Chúa. Đây là
điều thánh Giuse hơn tất cả các gia
trưởng của mọi gia đình trong nhân loại.
Có tin tưởng Chúa, Người mới
lập tức lên đường ngay giữa đêm khuya.
Có tin tưởng Chúa, Người mới sẵn sàng làm
một cuộc hành trình hoàn toàn ngoài dự tính của
Người, đến nơi xứ lạ quê
người và không rõ tương lai đi về đâu.
Thánh Giuse là con người của đức tin, giống
hệt như tổ phụ Người là Áp-ra-ham, lúc nào
cũng tìm cách làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Có thể lối diễn tả của thánh sử
Mát-thêu làm cho ta có cảm nghĩ như thánh Giuse quá thụ
động. Sứ thần Chúa bảo
đi là Người đi, bảo về là Người
về. Nhưng chắc chắn là thánh
Giuse không thụ động như vậy đâu.
Một đàng Người mau mắn làm theo
ý Chúa, nhưng mặt khác Người cũng phải
đối phó với những khó khăn, phải xoay
sở tháo vát để chu toàn bổn phận gia
trưởng của Người. Có lẽ chẳng ai dám
“xúc phạm” đến lòng khiêm tốn và đức tin
mạnh mẽ của Người nên không dám kể ra
những công khó của Người trong đời sống
của Thánh Gia Thất đấy thôi! Làm sao ta có thể
kể hết công ơn của Đấng đã hiến
thân phụng sự trong kế hoạch của Thiên Chúa,
“để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua
miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập…
và Người sẽ được gọi là người
Na-da-rét”.
4. Sống
Lời Chúa
Gia đình
là một đơn vị nòng cốt của nhân loại.
Nhân loại được thăng tiến hay không hoàn toàn
do gia đình. Nhân loại được
tăng số “như sao trời, như cát biển” là
nhờ gia đình. Nhân loại nên tốt hay xấu
cũng là do gia đình. Kể từ khi
tội lỗi xâm nhập vào nhân loại, nền tảng
gia đình bị phá hoại, quan hệ gia đình bị
tổn thương, nên gia đình cần phải được
phục hồi những gì đã bị tội lỗi
tước bỏ. Sự hiện diện của Thiên
Chúa giữa gia đình qua việc Con Một Người
xuống thế làm người con của gia đình
Na-da-rét, Thiên Chúa thi hành kế hoạch phục hồi
ấy. Chúa Giêsu giúp ta đặt lại vấn đề của
bậc làm con cái. Thánh Giuse nói lên gương
mẫu của bậc gia trưởng. Mẹ Ma-ri-a
phản ánh những nhân đức đầy tinh thần
của Chúa mà Mẹ đã dạy dỗ rèn luyện cho Chúa
Giêsu từ khi tấm bé cho thành người
“được Thiên Chúa cũng như mọi người
thương mến”. Như vậy ta có
thể ý thức được tầm mức quan
trọng của Thánh Gia Thất như thế nào trong
kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Suy tư về sự
hiệp nhất trong gia đình, thánh Phaolô viết: “Trên
hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái” (Cl 3:14). Vậy tôi
hiểu tại sao lòng bác ái lại quan trọng như
thế? Từ lâu, nói đến bác ái là
tôi thường nghĩ đó là việc đối xử
với người ngoài gia đình. Lời
thánh Phaolô có giúp tôi phải đặt lại vấn
đề bác ái không? Nếu có, tôi
phải xét lại đời sống gia đình tôi như
thế nào và phải làm gì để mọi người
trong gia đình biết sống bác ái đối với nhau?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã muốn
đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn
để mọi người bắt chước. Xin làm
cho chúng con cũng biết noi gương để ăn
ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc
lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung
hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên
trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng
con. A-men. (Lời
nguyện nhập lễ, lễ kính Thánh Gia Thất).
|