Cuộc
phiêu lưu –
Lm. Giuse Đỗ
Vân Lực
Nhân loại đang choáng
váng vì những cảnh gia đình đổ nát. Nhiều vấn đề lớn hôm nay sẽ
được giải quyết nếu bắt đầu
từ gia đình. Bởi vậy cần
nhìn vào gia đình Nadarét để tìm một giải pháp
tốt đẹp nhất cho những vấn nạn gia
đình hôm nay.
LY HƯƠNG.
Đức Giêsu đã
xuất hiện với những khó khăn chồng
chất trong một gia đình. Khó khăn lớn
nhất đe dọa tới chính mạng sống Hài Nhi Giêsu. Chính sứ thần đã báo mộng
cho ông Giuse: “Vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi
đấy!” (Mt 2:13) Giữa cơn quẫn bách, con
đường giải thoát đã mở ra trước
mắt, khi “sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông
Giuse rằng: ‘Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ
Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho
đến khi tôi báo lại.” (Mt 2:13) Thiên Chúa đã can
thiệp để giải thoát chính Con Mình.
Nhưng trước tiên, Hài Nhi có thể thoát nạn và vui hưởng
những ngày tự do nơi đất khách quê người
không, nếu ông Giuse không vâng lời tuyệt đối
lệnh truyền đó? Chính sự vâng lời đã
dẫn đến cuộc sống an vui
và tự do. Oâng vâng lời bồng bế gia đình lìa
bỏ quê hương, vượt biên sang Ai cập. Sẽ có ngày trở về quê cha đất
tổ. Nhưng ra đi hay trở về
không quan trọng. Quan trọng là làm sao nhận ra và
tuân hành Thánh Ý. Thực tế ông Giuse đã cùng gia đình
ở lại Ai cập cho đến khi vua Hêrôđê băng
hà.” (Mt 2:15) Sống nơi đất khách, bao
giờ ông cũng ôm giấc mộng hồi hương.
Chỉ có nơi quê hương, con
người mới đích thực sống cuộc
sống của mình. Ngoài quê hương
chỉ là nô lệ, xa lạ, tăm tối.
Giữa cảnh tha hương, ông Giuse chỉ
có một kim chỉ nam duy nhất là Thánh
Ý Thiên Chúa. Bởi vậy, khi nhận được
lệnh sứ thần, “ông liền trỗi dậy
đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen,”
(Mt 2:21) “để ứng
nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta
đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập,” (Mt 2:15; Hs 11:1) thoát miền đất
đầy bóng tối tử thần. Từ
một kinh nghiệm cứu Ítraen Dân Chúa thoát ách nô lệ Ai
cập, “thánh Mathêu muốn cho thấy Đức Giêsu là
người khởi đầu tái thiết toàn thể dân
tộc Ítraen như một cuộc xuất hành mới
đầy lý tưởng (x. Mt 19:28; 21:43). Việc trốn chạy này là
một cuộc xuất hành mới với một tân Môsê
vĩ đại hơn.” (The New Jerome Biblical Commentary
1990:636) Tương lai đang mở ra cho nhân loại …
Khi về đến quê cha
đất tổ, “vì nghe biết Aùckhêlao đã kế
vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông
sợ không dám về đó.” (Mt 2:22) Một quyết
định sai lầm lúc này sẽ dẫn đến
những hậu quả khốc hại cho Hài Nhi.
Oâng Giuse đang đứng trước ngã ba
đường. Giữa lúc ông hoang mang
như thế, “được báo mộng, ông lui về
miền Galilê.” (Mt 2:22) Trong hoàn cảnh
nào, ông cũng quyết định dựa trên Thánh ý. Không
phải ông không đủ trưởng thành. Dù có thâu
thập đủ tin tức, ông cũng dựa vào
Đấng khôn ngoan tuyệt đối để khỏi ân hận về sau. Cuối cùng theo hướng Thánh ý, ông đã đưa gia
đình “đến ở tại một thành kia gọi là
Nadarét.” (Mt 2:23) Trong đường lối
Thiên Chúa quan phòng, thời ấy vua Herod Antipas đang xây
thủ đô tại Sepphoris, một thành giáp ranh Nadarét.
Theo khôn ngoan tự nhiên, ông Giuse đã chọn
Nadarét làm nơi cư trú cho gia đình. Chắc
chắn ở đó ông có thể thoải mái kiếm kế
sinh nhai nuôi sống gia đình và bảo đảm cho
tương lai cậu bé Giêsu (x.The New Jerome Biblical Commentary
1990:636)
Thánh ý đã hướng dẫn ông Giuse
chọn Nadarét “để ứng nghiệm lời đã phán
qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ
được gọi là người Nadarét.” (Mt 2:23) Viết thế, thánh Mathêu “ám chỉ Đức
Giêsu là ‘người được thánh hiến’ trong dòng
tộc Samson và Samuel. Nếu vậy, có
thể thánh Mathêu muốn nói Đức Giêsu đầy
sức mạnh để cứu độ dân
Người.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:636) Thánh Giuse quả thật đã được Thiên
Chúa tuyển chọn đặc biệt để góp
phần đặc biệt công trình cứu độ muôn
dân.
GIA ĐÌNH TRONG SỨ
MẠNG CỨU ĐỘ.
Cũng như thánh Giuse, chúng ta “là
những người được Thiên Chúa tuyển
lựa, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3:12) để hoàn thành sứ mạng
lớn lao trong gia đình. Gia đình không
phải là một nơi náu ẩn của những con
người tầm thường với những việc
không tên. Theo ý định Thiên Chúa quan phòng, gia đình là hình
ảnh sống động nhất diễn tả tất
cả khả năng sáng tạo và cứu độ
của Thiên Chúa. “Tình cha và mẹ, theo ý muốn của Thiên
Chúa, được đặt trong mối tương quan
thông phần vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, và do
đó, có một quan hệ hỗ tương nội
tại.” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 23/9/2000) Không có gia đình, con
người không thể hoàn thành sứ mạng sáng tạo
đó.
Muốn hoàn thành sứ
mạng cứu độ, con người phải “có lòng
thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và
nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.”
(Cl 3:13) Nghĩa là trong môi trương nhỏ bé đó, con
người cũng có thể tìm được đầy
dẫy những cơ hội làm chứng cho Thiên Chúa. Nếu cứ luẩn quẩn với cái tôi, con
người sẽ không tìm được lối thoát và
không thể hoàn thành sứ mạng cứu độ. Nhưng nếu có cái nhìn của thánh Giuse, họ
sẽ thấy “cái tôi là cái đáng ghét.” Đáng ghét vì trong
ngữ học Việt Nam
“TÔI” chỉ được ghép với ba dấu sắc,
huyền và nặng: TỐI, TỒI, TỘI. Đóng
khung trong cái tôi là chìm vào cõi u tối. Trong
đó chỉ thấy những chuyện tồi bại và
tội lỗi. Khi nào thoát được cái tôi, con
người sẽ thật sự tìm được ánh
sáng, sự thật và sự sống. Đúng thế “ai
đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của
thế gian này. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có
ánh sáng nơi mình!” (Ga 11:9) Aùnh sáng Đức Giêsu đem
tới là tình yêu Thiên Chúa. Bởi đó, muốn sống
hạnh phúc, “anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây
liên kết tuyệt hảo,” (Cl 3:14)
nguồn mạch sáng tạo và sức mạnh cứu
độ của Thiên Chúa.
Mối dây bác ái đó không
chỉ liên kết mọi phần tử gia đình,
nhưng còn kết hiệp họ với Thiên Chúa.
Thực vậy, “gia đình Kitô hữu được kêu
gọi làm cho thiên hạ thấy mình là một nơi
cầu nguyện chung, khi cầu
nguyện như vậy, trong tự do của người
con, người ta thưa chuyện với Thiên Chúa bằng
cách gọi Người với cái tên trìu mến
"Lạy Cha chúng con". Chúa Thánh Thần
giúp chúng ta khám phá gương mặt của Chúa Cha như
kiểu mẫu trọn vẹn của tình Cha trong gia
đình.” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 10/10/2000) Thánh
Giuse đã họa lại trọn vẹn hình ảnh Chúa Cha
để cho mọi người cha biết cách ứng
xử trong những lúc gia đình gặp thử thách.
Hình ảnh người cha
trong gia đình Nadarét chắc chắn đã in sâu vào tâm
khảm Đức Giêsu trong suốt thời gian ẩn
dật. Chính nhờ những năm tháng
sống dưới sự che chở của Thánh Giuse,
Đức Giêsu đã học được cách phục
vụ mọi người. Thật vậy, “Chúa
cứu chuộc từng sống ẩn dật tại Nazareth
trong phần lớn đời Ngài, về mặt ‘con
người’, Người đã ‘tuân phục’(Lc
2, 51), Đức Maria mẹ Ngài và Thánh Giuse người
thợ mộc. Đức ‘tuân phục’
thảo hiền này lại chẳng là biểu lộ
đầu tiên sự vâng phục Cha Người ‘cho
đến chết’ (Ph 2, 8), nhờ đó Người
đã cứu chuộc thế gian sao?” (ĐGH Gioan
Phaolô II: VietCatholic News, 23/9/2000)
Chính trong môi trường
tình yêu đó, Đức Giêsu đã học nơi thân
phụ Giuse tất cả gương cương nghị
trong khi thi hành Thánh Ý Thiên Chúa. Quả
thực, từ khi chấp nhận cưới Đức
Maria, thánh Giuse đã “liều nhắm mắt đưa
chân.” Trong cuộc phiêu lưu đó, cùng với
Đức Maria, thánh nhân chỉ biết sống cho
Đức Giêsu, mở đường cho một dân
mới, một dân nhiệt thành làm điều thiện và
không ngừng tranh đấu chống lại mọi
cảnh nô lệ, áp bức và tội lỗi. Chính
Đức Giêsu, nhờ bàn tay Mẹ Maria
và thánh Giuse, sẽ dẫn muôn dân về Đất Hứa
chan hòa ánh sáng và sự sống.
|