TRUYỀN TIN
CHO MARIA
CHÚ
GIẢI CHI TIẾT
“Bà đã đắc sủng
nơi Thiên Chúa": Kiểu nói này là một đặc
ngữ sêmita; x. St 6,8: "Nhưng Noê
đã được nghĩa trước mắt Giavê".
"Này bà sẽ thụ thai và
sẽ sinh một con trai...": Câu này song song
với St 16,11: thiên thần của Giavê phán (với Agar):
Này, ngươi có thai và ngươi sẽ sinh con
ngươi sẽ gọi lên nó là Ismael, vì Giavê đã nghe
thấu nỗi khốn cùng của ngươi". x. Tl 13,3-5
"Bởi thế hài nhi sẽ
là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”: Trong Hy
ngữ, cấu trúc của câu này khá tối tăm; B.J đã
cố gắng làm sáng tỏ bằng cách thêm vào chữ
"hài nhi" không có trong nguyên bản.
Theo mặt chữ thì bản văn như thế này:
"bởi thế thụ thai thánh"
(I’engendré saint) sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa". Tuy vậy. tĩnh từ
"thánh" khó có thể làm hình dung từ (épithète) cho
tiếng "thụ sinh" vì nó không có quán từ (article),
như văn phạm Hy lạp đòi hỏi (le saint engendré
viết theo văn phạm Hy lạp thì phải là I’engendré
le saint: hai quán từ). Nên có lẽ phải coi "thánh"
như một thuộc từ (attribut) và bấy giờ câu
nói trở thành: "thụ sinh sẽ được
gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Nhưng
vẫn còn khó khăn là “Con Thiên Chúa" chẳng phải là
sự nới rộng của ý tưởng thánh"! thật là lưỡng nan!
"Với Thiên Chúa, nào có gì
lại là không có thể": Trong St 18,14,
câu này giải thích việc cưu mang lạ lùng Isaac.
"Tôi là tôi tá Chúa": x. R 3,9; làm 25,41.
Ở đây nói đến đức tin (c.45) và tình yêu
mến hơn là lòng khiêm nhượng, vì theo
Thánh Kinh, được làm tôi tớ Chúa là một vinh
dự lớn lao vô cùng.
KẾT
LUẬN
Trong khi sự tiền hữu
đời đời của Chúa Giêsu được Phaolô
và Gioan long trọng giảng dạy, thì tử hệ
thần linh từ lúc mới sinh của Người
lại là giáo huấn đặc biệt của Luca, rõ ràng
là trong bản văn hôm nay. Khi tập trung ngay
từ đầu đời Chúa Kitô những đề tài
liên quan tới các cuộc thần hiện sẽ đánh
dấu từng chặng cuộc sống công khai và việc
khải hoàn sau cùng của Người (so sánh c.35 với
phép rửa Chúa Giêsu. Cuộc biến hình và việc
phục sinh), ông muốn dạy ta rằng tước
hiệu Con Thiên Chúa không phải Chúa Giêsu chiếm
được sau này, nhưng đã đương phiên thuộc
về Người ngay từ khi người
đến trong thế
gian. Cùng với việc thụ thai
đồng trinh là hệ luận, đó có lẽ là giáo
huấn chính yếu của trình thuật truyền tin.
Ý
HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Sứ
mạng của Maria nối dài và hoàn tất sứ mạng Israel. Maria là "thiếu nữ Sion" mà từ cung
lòng, Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện. Bà là
nữ tỳ của Chúa", kẻ gồm tóm và làm cho
đẹp hơn ơn gọi của dân Israel, tôi tớ
Thiên Chúa, lẫn ơn gọi của các đại tôi
tớ Ngài trong Cựu tước như Abraham. Giacóp, Môisen,
Đavít, Salomon, Isaia và người Tôi tớ bí ẩn của
Gioan trong Is 40-45.
2. Thiên Chúa
đã có thể đặt Maria trước một sự
việc đã rồi và sai thiên sứ báo tin rằng bà
đã thụ thai bởi Thánh Thần. Nhưng Ngài đã
muốn cần đến sự tự do đồng ý
của Maria trong công trình cứu chuộc: không những vì
lòng tôn trọng nhân vị của Maria, mà còn để làm
cho bà trở nên kẻ hợp tác với Ngài hầu cứu
lỗi nhân loại qua sự chấp thuận ý thức và
tình nguyện.
3. Dacaria, khi
được loan báo Gioan Tẩy giả sẽ sinh ra,
đã xin một dấu chỉ để có thể tin vào
tính cách xác thực của sứ điệp. Còn
Maria tin ngay sứ điệp, chẳng xin dấu chỉ
gì. Vấn nạn của bà không phải là một nghi
ngờ nhưng là một lời xin soi sáng để tin
hơn. Ta cũng thế, đức tin của ta phải
hoàn toàn và tức khắc, nhưng cũng phải tìm cách soi
tỏ ngần nào có thể bằng sự khiêm tốn
cầu xin ánh sáng, bằng việc học hỏi hay ít
nhất bằng đối thoại với linh mục.
Ở dưới đất này, đức tin luôn có
một phần tăm tối, đức tin của Maria
cũng như đức tin của ta, nhưng càng vùng chãi
và càng có tính cách nhân loại chừng nào thì nó càng sáng tỏ
chứng ấy.
4. Thiên sứ
cho Maria một lời giải thích. Nhưng
rồi mầu nhiệm vẫn còn, "vì đường
lối của thiên Chúa không phải là đường
lối của ta". Tuy nhiên lời giải thích
của thiên sứ sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng
đức tin của Maria, vì bà "ghi nhớ những
điều ấy trong lòng để suy niệm" (2,19). Ta cũng vậy, những giáo huấn
của Hội thánh qua bài giảng Chúa nhật và các lớp
giáo lý không miễn cho ta hành vi đức
tin. Song chúng sẽ nâng đỡ và nuôi dưỡng
đức tin của ta.
5. Vì lòng
thương, Thiên Chúa vẫn cho Maria một dấu chỉ
(việc bà Êlidabét son sẻ mà thụ thai)
để xác nhận lời của thiên sứ và giúp lòng
tin của bà dễ dàng hơn. Maria không cần dấu
chỉ này vì bà đã tin lời thiên sứ, nhưng đây
là một ân huệ thêm vào. Ta cũng
vậy đôi khi Thiên Chúa gởi cho ta một dấu
chỉ rất rõ về sự hiện diện hoặc ý
muốn của Ngài (thí dụ ơn được an ủi thiêng liêng, hoàn cảnh quan phòng
biến đổi cả hướng đi cuộc
đời...). Những dấu chỉ đó chẳng
phải là tối cần cho đức tin, ta không nên
chờ đợi chúng trước khi tín thác vào Chúa hoàn
toàn. Nếu Ngài cho dấu chỉ chỉ vì
lòng thương, ta hãy cảm tạ và khiêm tốn như
Maria.
6. Khi lần
hạt, ta lặp lại những lời thiên sứ đã
ngỏ với Maria.
7. Maria hoàn toàn
sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa, như một
nữ tỳ đúng nghĩa. Bà không biết ý
muốn ấy sẽ dẫn đưa bà đến
đâu. Nhưng bà đã thưa vâng trong
tin tưởng, yêu mến. Ta cũng vậy, phải
sẵn sàng mền mỏng, phó thác cho đường
lối Chúa Quan phòng. Ta không rõ ý muốn ấy sẽ
mượn ngõ quanh co nào, nhưng ta biết chắc
rằng đích điểm sẽ là sự thân mật
với Thiên Chúa ngan bây giờ và chiếm hữu Ngài hoàn toàn
trong vĩnh cứu. Ta phải phó thác cho ý muốn của
Thiên Chúa với thái độ sẵn sàng, tin tưởng
của Maria! Chừng đó ta sẽ có niềm vui thấy
Thiên Chúa làm "những điều lớn lao"
qua các tôi tớ hèn hạ của Ngài.
8. Thiên Chúa có
thể làm cho cung lòng một trinh nữ sinh con, cũng
như có sức hoán cải một tội nhân nên thánh:
chẳng có gì mà Ngài không làm được.
|