Sứ
vụ của Gioan – Lm FX.
Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo G. Gnilka
mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc
mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này
đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng
khung với từ “Tin Mừng” ở đầu và cuối
đoạn). Như thế, đoạn văn 1,1-8 là đoạn mở đầu của
Lời tựa này liên hệ đến hoạt động
của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
2.- Bố cục
Bản văn có
thể chia thành ba phần:
1) Danh hiệu của Tin Mừng (1,1);
2) Hoạt động của Gioan (1,2-6):
a) Câu trích Isaia xác định vai trò
của Gioan (cc. 2-3),
b) Giới thiệu tóm tắt bản
thân và hoạt động của Gioan (cc. 4-6);
3) Lời loan báo của Gioan (1,7-8).
3.- Vài điểm chú
giải
- Khởi đầu
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (1): Câu này là tiêu
đề của cc. 1-8 nói về công việc rao giảng
của Gioan Tẩy Giả, hay là tiêu đề của
phần Mở (cc. 1-15), hoặc của toàn tác phẩm?
Phải chăng sứ vụ, cuộc Khổ nạn và cái
chết của Đức Giêsu chỉ là khởi
đầu của Tin Mừng, và Tin Mừng sẽ
được tiếp tục loan truyền nhờ sứ
vụ của Giáo Hội? Thật ra, không có gì cho thấy
rằng Mc coi hoạt động của Giáo Hội như
một phần của Tin Mừng cả, y như thể
Giáo Hội phải tự rao giảng về chính mình.
Cứ theo nội dung của tác phẩm, ta thấy Tin
Mừng mà Giáo Hội phải công bố chính là biến
cố cứu độ đã xảy ra trước khi có
Giáo Hội và đã khai sinh ra Giáo Hội, đó là sứ
vụ của Đức Giêsu và cuộc Vượt Qua
của Người.
Có thể nói c. 1 này
là tiêu đề của phần Mở của Tin Mừng
Máccô: hoạt động của Gioan, vị Tiền Hô loan
báo và ban phép rửa cho Đức Kitô, trong hoang địa,
là phần mở cho biến cố cánh chung (sứ vụ,
cuộc đời đau khổ và cuộc tôn vinh của
Đức Giêsu).
Từ ngữ “Tin
Mừng”, được vay mượn từ Cựu
Ước (x. Is 40,9; 52,7; 61,1…),
được hiểu tương đương với
lời loan báo tiên khởi (kêrygma) được triển
khai rộng ra (x. Công vụ). Thế mà kêrygma của các Tông đồ
(x. Cv 1,21t; 10,37; 13,24) cũng như TM Mc
bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy
Giả. Vậy chính mầu nhiệm này là “khởi
đầu Tin Mừng” (x. cùng một kiểu diễn
tả: Hôsê 1,2 ).
- Tin Mừng
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: Phần Mở từ c. 1 đến c.
15: hai từ ngữ “Tin Mừng” đóng khung bản văn
này. Kiểu nói “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” có thể
hiểu là “Tin Mừng về [= có đối tượng
là] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ đối
tượng, objective genitive), hoặc “Tin Mừng của [=
đến từ] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ
chủ từ, subjective genitive), hoặc “Tin Mừng là chính
Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách giải thích, epexegetic genitive;
xem sự song đối giữa “vì Đức Kitô” và “vì Tin
Mừng”: 8,35; 10,29; 13,9).
Dưới ánh sáng
của biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã
hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, theo
nghĩa là Người không còn phải là Đấng Mêsia
trần thế và dân tộc mà người Do Thái từng
mong đợi, nhưng là Đấng huyền nhiệm,
đã tỏ mình ra là “Đức Chúa” (x. Cv 2,36) và
“Đấng Kitô” (4,26t; 10,38), qua biến cố Phục Sinh,
nay ở vào tư thế có thể giải thoát mọi
người khỏi Satan, tội lỗi, đau khổ và
cái chết. Bây giờ khi đọc lại câu truyện
trước Phục Sinh Mc viết ra, họ hiểu
rằng tại hoang địa và qua cuộc sống công
khai (với những cuộc trừ quỷ), Đức
Giêsu đã khai mào chiến thắng bằng sức giải
phóng ấy. Họ cũng hiểu rằng Đức Giêsu
truyền lệnh giữ thinh lặng (“bí mật thiên sai”)
là vì không muốn người ta hiểu lầm về
tư cách và sứ vụ của Người: Phêrô đã
hiểu sai nội dung danh hiệu Mêsia (x. 8,29-33);
Người chỉ nhận là Con Thiên Chúa (14,61t) và kẻ
đại diện cho thế giới ngoại giáo chỉ
tuyên xưng Người như thế (15,39) vào lúc
Người bị kết án và xử tử. Người
ta chỉ có thể hiểu tất cả các danh hiệu
của Đức Giêsu xuyên qua mầu nhiệm đau
khổ của Người. Và các Kitô hữu cũng
phải hiểu rằng họ chỉ có thể tuyên
xưng Đức Giêsu thật là Đấng Kitô và là Con
Thiên Chúa, bằng cách bước theo Người trên con
đường đau khổ (x. 8,34;
10,35-45).
- Câu 2-6:
Phân đoạn này có
lược đồ A-B-B’-A’:
A = cc. 2-3:
mở đầu, trích các ngôn sứ,
B = c. 4:
Gioan rao giảng phép rửa tỏ lòng sám hối.
Câu này song đối với câu sau,
B’= c. 5:
đám đông đến với Gioan để thú tội và
nhận phép rửa,
A’= c. 6:
kết, nói đến kiểu sống của Gioan như là
một ngôn sứ.
So sánh cc. 2-3 trích Ml
3,1 và Is 40,3 với Mt (3,3; 11,10), Lc (3,4-6; 7,27) và Ga (1,23), ta
hiểu các tác giả Tin Mừng có chung một nguồn,
nhưng Mc đã vừa thêm vừa tổng hợp câu
truyện Gioan rao giảng với bài tường thuật
của ngài về nhóm sứ giả, để làm nên
một mở đầu long trọng và để có
thể nêu bật ý tưởng này là khởi đầu Tin
Mừng Cứu Độ đã được chính các ngôn
sứ xác định nơi cuộc xuất hiện
của Gioan Tẩy Giả.
Mc đã trích Ml 3,1a (…
“mặt Ta”) dưới ảnh hưởng của Xh 23,20
LXX (“mặt Con”) để biến vị sứ giả
thành tiền hô không phải của Thiên Chúa mà là của
“Đức Chúa” (x. Ml 3,1b), là Đức Giêsu. Ngoài ra,
hẳn là Mc cũng nghĩ đến đoạn cuối
của sách Ml (3,23t): ngôn sứ Êlia có vai trò tiền hô.
Tác giả cũng
sử dụng bản văn Is 40,3 (LXX)
cùng với các tác giả Tin Mừng khác: “Đức Chúa”
đây là Đức Giêsu Kitô, và “vạch lối cho thẳng
để Thiên Chúa đi” được sửa thành
“để Người đi”.
- đi
trước mặt Con = đi trước Con.
- Gioan Tẩy Giả
đã xuất hiện (4): Câu này với các câu trích ở trên
chỉ là một câu duy nhất, được ngắt
bằng dấu phết: “Chiếu theo lời đã chép …,
ông Gioan Tẩy Giả…”. Những gì bây
giờ được nói về Gioan thì làm ứng
nghiệm các sấm ngôn, đặc biệt sấm ngôn Is 40,3: ông ở “trong hoang địa”, và tại
đó ông “hô” để kêu gọi người ta hoán
cải, mà “dọn sẵn con đường của
Đức Chúa” (Đức Giêsu).
Gioan “rao giảng
thanh tẩy hối cải, để được tha
thứ tội khiên” (NTT). Đấy là hai hành vi
tách biệt nhưng liên hệ với nhau, vì thế đã
được diễn tả trong một công thức duy
nhất.
- sám hối, metanoia: sự hoán cải,
do động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy
nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối
tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”. Đây là việc chuyển
đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác,
tức là thay đổi trọn vẹn lối sống.
Sự thay đổi này có một phương diện tiêu
cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi:
x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương
diện tích cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa:
Cv 20,21; 26,20).
Trong Tin Mừng Máccô,
danh từ metanoia được dùng 1 lần (1,4) và
động từ metanoeô được dùng 2 lần (1,15;
6,12), như thế là ít hơn các TMNL khác (metanoia: Mt 2
lần, Lc 5x, Ga 0x, Cv 6x, Phaolô 4x, Dt 3x, 2 Pr 1x; metanoeô: Mt 5x, Lc
9x, Ga 0x, Cv 5x, Phaolô 1x, Kh 12x), nhưng lại có một cách áp
dụng độc đáo. Tác giả áp dụng hai từ
này cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1,4),
Đức Giêsu (1,15) và Nhóm Mười Hai (6,12), như
vậy liên kết vị Tiền Hô, Đức Giêsu và các
sứ giả của Người với nhau (xem một
cách dùng tương tự cho hai động từ kêryssein
[loan báo]: 1,4.7; 1,14.38t; 3,14 và 6,12; paradidonai [giao nộp]: 1,14;
9,31; 10,33; 13,9.11). Các từ đó lại luôn
lệ thuộc động từ kêryssein, nghĩa là các
từ đó chính là nội dung của sứ điệp các
ông phải mang đi truyền bá.
- phép
rửa tỏ lòng sám hối: Cụm từ Hy Lạp baptisma metanoias
(thanh tẩy hối cải, x. Lc 3,3; Cv 13,24; 19,4): metanoias
ở thuộc-cách (genitive) xác định đặc tính
của phép rửa Gioan loan báo. Đây là
một kiểu nói Sêmít, có nghĩa là “một phép rửa
tượng trưng hoặc diễn tả sự hoán
cải”. Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni
ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự
phép rửa của người Êxêni, nhất là ở
điểm cả hai phép rửa đều diễn tả
một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này
vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ
của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn
đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào
thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai
điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên
một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối
nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban
phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị
cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự
đến.
- Mọi
người từ khắp miền Galilê và thành Giêrusalem (5): Máccô nhắm cho
thấy mục tiêu của sứ vụ Gioan Tẩy Giả
là khai mạc giai đoạn cuối cùng của
Chương trình Thiên Chúa cứu độ loài
người. Như thế, kiểu nói phóng đại
(“toàn thể”, “khắp”) về miền Giuđê và Giêrusalem,
kinh đô tôn giáo của Do Thái giáo, không phải là không có
chủ ý, nhất là lại có quy chiếu về việc
thanh tẩy Giuđa và Giêrusalem thể theo Ml 3,4
hoặc quy chiếu về sứ điệp vui tươi
được ngỏ với Giêrusalem và các thành Giuđa
thể theo Is 40,9t. Nay đã khởi sự biến cố
cánh chung: câu hỏi phải đặt ra
là không biết Dân Thiên Chúa có nhận biết chăng
“Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (c. 1) chính là “Đấng
quyền thế hơn” (c. 7), Đấng mà Gioan đang
dọn đường đón tiếp.
- kéo
đến: Thì vị hoàn (imperfect) exeporeueto diễn tả
chuỗi người liên tục kéo đến để
nghe Gioan giảng và nhận phép rửa. Giới
từ ek (out, of) muốn nói là ra khỏi miền Giuđê và
thành Giêrusalem.
- Gioan mặc áo lông
lạc đà… (6): ên .. endedymenos:
trợ động từ eimi ở thì vị hoàn cộng
với phân từ quá khứ của động từ chính
endyô nói lên cách thức ăn mặc quen thuộc của
Gioan. Ông được giới thiệu có cách sống
như một con người của hoang địa,
một nhà khổ hạnh, một na-dia (x. Lc 1,15),
tương tự ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8; Dcr 13,4).
Trichas kamêlou, “lông
lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà. Đây
là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà.
Zônê, “girdle, waitsband; ceinture”, không phải là dây thắt
lưng của người Tây phương, nhưng là
một thứ như cái “ruột tượng” của ta (x.
Mc 6,8).
- Ăn châu chấu: Châu chấu
luộc trong nước muối rồi nướng trên
than và mật ong rừng là hai thứ lương thực
của dân cư sa mạc. Vì bản
văn không kể ra thứ lương thực nào khác, ta
hiểu ở đây tác giả muốn nêu bật nếp
sống khắc khổ của vị Tẩy Giả.
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do
động từ Hy Lạp kêryssein, “công bố; loan báo”,
ở thì vị hoàn, để diễn tả đây là
một hoạt động thường xuyên của Gioan.
Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn
này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên
tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô
cho.
- Đấng
quyền thế hơn tôi: Có lẽ danh xưng này ám chỉ
đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa
quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay
nắm trọn chủ quyền”). Sự tương
phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không
đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công
việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do
Thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x.
Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- trong Thánh Thần (8): Các bản
văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong
Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình
thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố
Triều Đại cánh chung của Thiên
Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm
đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan
với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ
hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến
phán xét. Nhờ đó, Người
đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý
nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Danh hiệu của
Tin Mừng (1)
Cả bốn
quyển mở đầu bộ Tân Ước chỉ
bắt đầu được gọi là “Tin Mừng”
nhiều năm sau khi được viết ra. Vào thời tác
giả Máccô, “Tin Mừng” không có nghĩa là một quyển
sách, mà là “những tin vui” do một sứ giả mang
đến. “Các tin mừng” là những tin về các
chiến thắng, các biến cố may lành, các hiệp
ước hòa bình và nhất là tin về các cuộc chào
đời. “Các tin mừng” làm bừng lên
những niềm hy vọng về một cuộc sống
tiện nghi, sức khỏe, bình an, nên dân chúng vui
sướng khi nghe được.
Mc 1,1
dùng từ ngữ “tin mừng” để giới thiệu
“lời rao giảng của Kitô giáo”, cho chúng ta biết
việc cứu độ và hạnh phúc không còn là kết
quả của những tin vui về hoàng đế hoặc
về một ai đó giống như hoàng đế,
nhưng là kết quả đến từ lời rao
giảng của Đức Giêsu, cũng là lời giảng
về Đức Giêsu, cho thấy đã đến lúc Thiên
Chúa can thiệp chung kết vào lịch sử loài
người.
* Hoạt động
của Gioan (2-6)
Câu trích tổng
hợp Is, Ml và Xh (cc. 2-3) có mục đích xác định vai
trò của Gioan trong quan hệ với Đấng Mêsia mà ta
biết là chính Đức Giêsu. Nhưng
một nét được nêu bật là Gioan không phải là
vị Tiền Hô của Con Người sẽ đến,
mà là của Đức Giêsu trần thế.
Còn cc. 4-6 giới
thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động
của Gioan: ông loan báo phép rửa bày tỏ lòng sám hối
để được ơn tha tội. Tác
giả đặt đối lập phép rửa bằng
nước của Gioan và phép rửa bằng Thánh Thần
của Đấng Mêsia. Phép rửa bằng Thánh
Thần liên hệ rõ ràng đến phép rửa tội Kitô
giáo. Nói đến “để được ơn tha
tội” là nêu một khẳng định liên hệ
đến Thiên Chúa: Ngài sẵn sàng tha thứ các tội
lỗi; nói đến “sám hối” là nêu một khẳng
định về loài người: họ có tội và
được dạy rằng Thiên Chúa tha tội cho
họ. Sứ điệp của Gioan
đưa đến cả nỗi sợ hãi lẫn
niềm vui.
Dân chúng đã từ
khắp nơi kéo đến (khắp miền Giuđê và
thành Giêrusalem); tác giả không nói đến Galilê, vì theo ngài, hoạt động của vị
Tiền Hô tập trung vào miền nam. Họ thú nhận
tội lỗi: ta có thể nghĩ đến một hành vi
tương tự mà các thành viên ở Qumrân làm vào lễ tái
lập giao ước (1 QS 1,22–2,1)
hoặc người Do Thái làm vào ngày Lễ Xá Tội.
* Lời loan báo
của Gioan (7-8)
Tương hợp
với câu trích Is nói về tiếng nói của người
loan báo, hoạt động của Gioan được mô
tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công
bố”; “phổ biến” (kçryssein). Hành vi này đưa ông
đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ
(3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả
đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối
lập giữa phép rửa của ông với phép rửa
của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền
thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang
đến.
+ Kết luận
Đến đây,
chúng ta đã có thể hiểu vì sao sứ vụ của
Gioan lại là “khởi đầu Tin Mừng”. Bởi
vì Tin Mừng là biến cố trước khi là sứ
điệp. Qua vị Tẩy Giả, Thiên Chúa thực
hiện các Lời Ngài hứa (cc. 2-3); Thiên Chúa thực
hiện nơi Đức Giêsu, Đấng sẽ làm phép
rửa trong Thánh Thần (cc. 6-8). Như thế, sứ
vụ của Gioan đã thuộc về biến cố cánh chung, biến cố này xảy ra khi
Đức Giêsu bắt đầu rao giảng tại Galilê
và các môn đệ rao giảng khắp tứ phương
thiên hạ.
Gioan chỉ là
một sứ giả “đi trước mặt”
Đức Chúa (c. 2). Nhưng cũng chính ông có
nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Chính vì thế, “trong
số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao
trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta
được mời gọi tin vào sự trung tín của
Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì
khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi
các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến.
Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi
sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho họ
biết rằng họ bị thất sủng, tương
quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối
loạn, nhưng đồng thời ông khẳng
định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót
đối với họ và Ngài muốn thắng
vượt tình trạng thất sủng của họ. Đoạn văn này cũng cho thấy Ba Ngôi
(Đấng xưng là “Ta”, “Đấng quyền thế
hơn” và “Thánh Thần”) cùng làm việc để thực
hiện công trình cứu độ.
2. Gioan không xác
định tội ông nói đến là tội gì. Dĩ nhiên ông có thể hiểu ngầm rằng
những người đang nghe ông biết các tội
của họ. Từ sự hiểu biết này phát
sinh ước muốn thú nhận các tội lỗi của
mình (1,5). Tuy nhiên, tội căn bản là
loài người không nhận biết Thiên Chúa là Đấng
tạo dựng nên mình và là Chúa tể của mình, không
tự hỏi về ý muốn của Thiên Chúa, nhưng
muốn làm chúa tể của chính mình, đi theo
những ý muốn của mình. Đặc biệt tội
hệ tại việc không tuân giữ các điều răn
của Thiên Chúa vì các điều răn cho biết ý
muốn của Thiên Chúa.
3. Người Kitô
hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với
anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng
quan hệ của mình với “Đấng đang
đến”, để khiêm tốn và trung thực giới
thiệu về Người như là Đấng đã
đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Vị Tẩy
Giả nhìn người ta lên khỏi nước. Ông
gạt đi các lời cám ơn và ca ngợi. Ông nói với họ về “Đấng quyền
thế hơn”, Đấng sẽ ban cho họ Thần Khí
của đời sống mới. Đời
sống này sẽ khởi sự khi người ta nhận
ra và đón tiếp Đức Kitô cùng với sự khôn
ngoan của Người vào lòng. Họ đang ở
tại bờ của một khởi đầu; họ
cần sẵn sàng, khao khát, mở lòng ra.
|