Những người
được chúc phúc
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga
Đặng Quang Tiến)
Đây là dụ ngôn
cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa
đến bất ngờ; và do đó phải luôn luôn
sẵn sàng (24,36-25,46). Đây cũng là
giáo huấn cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ
trước khi tin mừng Matthêô bước sang trình
thuật Thương Khó. Về bố cục của đoạn
25,31-46, có thể phân chia như sau: -
Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (25,31-33); -
Đối thoại trong ngày phán xét chia làm hai phần: -
Giữa thẩm phán với người bên phải (25,43-40)
và - với những người bên trái (25,41-45); - Kết
luận về số phận đối nghịch của
hai nhóm (25,46).
Hai cuộc
đối thoại có cấu trúc tương tự nhau,
gồm: - Tuyên bố của vị vua về ân
thưởng và hình phạt của mỗi nhóm dựa trên
những gì họ đã làm hoặc không làm (cc. 34-36 và 41-43);
- Đáp lời của mỗi nhóm (cc. 37-39 và 44); - Kết
luận của vị vua, kèm theo cụm từ “Quả
thật Ta bảo các ngươi” (cc. 40 và 45). Các
lời đối đáp giữa vị vua và mỗi nhóm
mở đầu bằng, tote, “bấy giờ” (cc.
34.37.41.44.45).
Mỗi cuộc
đối thoại có cấu trúc lập lại: mỗi
nhóm lập lại gần như từng chữ lời
tuyên bố của vị vua: “đói/cho ăn”, “khát/cho
uống”, “khách lạ/ tiếp đón”, “trần truồng/
chommặc”… (c. 35-36) – “đói/nuôi
dưỡng”…. (c. 37-39). (x. W.D.Davies -
D.C.Allison, The Gospel According to Saint Matthew. A
Critical and Exegetical Commentary (ICC; Edinburgh: Clark, 1988, 1991, 1997)
III, p. 416). Như thế các việc làm hay không làm cho Chúa
được lập lại đến bốn lần. Và càng về sau, chi tiết càng được rút
ngắn lại.
Bối cảnh
buổi phán xét cuối cùng (cc. 31-33)
Trong ba câu dẫn
nhập, Matthêô trình bày quang cảnh Con Người
đến. Quang cảnh nầy gồm những yếu tố
đã gợi lên trong tin mừng Matthêô trước đây
(10,23; 13,41.49-50; 16,27-28; 19,28; 24,30-34; x.
Đan 7,13-14). Đặc điểm của
phần dẫn nhập nầy là các động từ
ở thì tương lai. Chỉ những
sự việc sẽ xảy ra trong ngày phán xét sẽ
đến. Trong dẫn nhập nầy Matthêô không nói
gì đến “lúc nào” Chúa đến (x. 24,36),
mà chỉ trình bày ý nghĩa của việc Người
đến. Quang cảnh nầy nhấn
mạnh vinh quang của Con Người. Người
“ngồi trên ngai”, “trong vinh quang của Người”, và “các
thiên thần bao quanh Người”. Người
thi hành quyền phán xét trên các dân tộc như một
mục tử tách chiên ra khỏi dê. “Vinh quang của
Người” (19,28) hay “trong vinh quang
của Người” (c. 31[2x]) thật ra không phải vinh
quang của riêng Người, mà là “vinh quang của Cha
Người” (x. 16,27). Tính từ sở
hữu autou, “của
Người”, được dùng để nhấn
mạnh tính cách Kitô trong cuộc hiển lâm nầy. Vị trí “ngồi trên ngai” là vị trí của
một vị vua, và từ “ngai vinh quang của
Người” Người thực hiện việc phán xét
các dân tộc.
Ethnos, “dân tộc”, và cũng có nghĩa là
“người-không Do thái”, rồi sau nầy
“người-không Kitô hữu”. Khó có thể tưởng
tượng có hai cuộc phán xét, một cho mười hai
chi tộc Israel (19,28)
và một cho muôn dân (25,31-32). Con Người chỉ
đến một lần và trong lần ấy Người
phán xét mọi dân tộc, trong đó có cả dân Israel. Vậy panta ta ethnè (c. 33) chỉ cách
chung mọi dân trên mặt đất; hay nói cách khác là
mỗi người, hekatos,
như trong một lời tiên báo khác về việc ngự
đến và phán xét của Con Người (16,27).
Điều nầy có lẽ phù hợp hơn
cho việc giải thích đoạn kế tiếp khi nói
đến việc đối xử bác ái với “từng
người anh em hèn mọn” (c. 40). Việc
phán xét mang tính cách cá nhân. Việc nầy
được hình tượng hoá qua hình ảnh phân tách
chiên ra khỏi dê. Trong Do thái giáo “bên
hữu” được quan niệm là bên tốt lành mang
lại phúc lành; còn “bên tả” là bên xấu và bị chúc
dữ.
Đối thoại
trong ngày phán xét (cc. 34-45)
Con Người
đang ngồi trên ngai được gọi là “Vua”, basileus. Những đoạn
trước đã nói đến vai trò phán xét của Con
Người (x. 13,41-43; 16,27). Chúa Giêsu với tư cách là vua khi Người phán
xét. Nhiều lần trong Matthêô nói đến Người
với tước hiệu là “Vua” (2,2;
21,5; 22,11; 27,11.29.37 và 42), và cũng nói về vương
quốc của Người (13,41; 16,28; 20,21). Deute, “Hãy đến”, nhắc
nhớ lời mời của một vị vua sai các
đầy tớ đi nói với những người
đã được mời đến dự tiệc
cưới đã sẵn sàng (22,4). Và
giữa những “người được chúc phúc, eulogèmenos, của Chúa Cha”, Chúa
Giêsu là người đầu tiên được gọi
bằng tên nầy (x. 21,9; 23,39). Người được hưởng vinh quang
Nước của Cha Người trước tiên.
Động từ khèronomeò,
“thừa hưởng” xuất hiện 3 lần trong Matthêô
(5,5; 19,29; 25,34), và đều có
Nước Trời hay sự sống đời
đời làm đối tượng. Về việc
thừa hưởng Nước Trời xem 5,19-20;
7,21; 8,11... Nước Trời nầy hoặc chỗ trong
Nước Trời đã được do chính Chúa Cha
chuẩn bị (thành ngữ tương tự trong 20,23), “từ lúc tạo thành vũ trụ”
(25,34; thành ngữ tương tự trong 13,35). Như
thế, trong việc ân thưởng cho
những người được chúc phúc, mục
đích cứu độ của Thiên Chúa được
viên thành.
Tiếp theo là cuộc đối thoại với
những người bên hữu (cc. 34-40). Chúa
Giêsu kể ra những việc họ đã làm. Các động từ ở thì bất định
(aorist) chỉ các hành động tốt họ đã
được thực hiện rồi trong đời
của họ (cc. 35-39). Chính Chúa Giêsu
đồng hoá với những người có thiếu
thốn nầy; bởi đó những ai làm những
việc nầy được kể là “những
người được chúc phúc”. Các việc bác ái
nầy được nói nhiều đến trong Cựu
Ước (Is 58,7; Ezk 18,7.16; Gióp 22,6-7; 31,17.19.21.31-32; Tob
1,16-17; 4,16; Sir 7,34-35). Những điều được nêu
ra là những nhu cầu căn bản của sự
sống.
Những
người đứng bên hữu được gọi
bằng một tên khác nữa là “những người công
chính”(c. 37.46). Họ đã
không biết là họ đã làm cho chính Chúa Giêsu khi họ giúp
đỡ những người thiếu thốn. Do
đó họ đã đặt ra một lần ba câu
hỏi: “Có bao giờ chúng tôi thấy…” (cc. 37-39).
Những câu hỏi nầy cũng sẽ
được lập lại, ngắn gọn hơn,
nơi những người đã không giúp đỡ
những người thiếu thốn (c. 44). Cả
hai nhóm người đã làm điều tốt hay đã
không làm điều tốt, đều không biết Chúa Giêsu
đã đồng hóa mình với những người
thiếu thốn. Điều nầy muốn nói việc
nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Người là yếu
tố thiết yếu và không thể thiếu để
được vào Nước Trời.
Chúa Giêsu đưa ra
nguyên tắc, trung tâm của trình thuật, bắt
đầu bằng công thức trang trọng “Quả
thật, Tôi nói cho anh em”, “những gì các ngươi đã
làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất
này của Tôi, là các ngươi đã làm cho chính mình Tôi” (c.
40). Ai là “người anh em hèn mọn nhất
của Tôi?” Trong tin mừng Matthêô “Anh em của Tôi”
chỉ các môn đệ của Người (12,48-49; 28,10). Đàng khác, những người
“hèn mọn”, oi mikroi,
thường chỉ các môn đệ (18,6.10.14).
Và chính câu 10,42 xác nhận “những người bé mọn
nhất” là các môn đệ của Chúa Giêsu khi Người
quả quyết một chén nước cho các môn đệ
của Người sẽ không mất phần
thưởng sau nầy. Hơn nữa trong
mạch văn ấy, Chúa Giêsu đã đồng hoá trọn
vẹn giữa Người và các môn đệ của
Người (10,40tt).
Đối thoại
với những người bên tả (cc. 41-45). Ý
tưởng của những lời Chúa Giêsu nói trong
phần nầy tương tự như trong cc. 34-40, và
dưới dạng phủ định (7 mệnh
đề). Đồng thời, có những từ
ngữ và cụm từ đối nghĩa so với
đoạn trước: “Các ngươi hãy đi khỏi
mặt Ta” (“hãy đến” trong c. 34), “những kẻ
bị chúc dữ, katèramenoi,
(“những người được chúc phúc” trong c. 34).
Trong câu 41 có những bất đối xứng so với
câu 34: Matthêô tránh không nói “những kẻ bị Cha Ta chúc
dữ” (so sánh “những người được Cha Ta
chúc phúc”), và không nói “lửa đời đời
được chuẩn bị sẵn từ tạo thiên
lập địa” (so sánh “Nước Trời đã
được chuẩn bị từ tạo thiên lập
địa”), bởi vì Thiên Chúa không tạo dựng con
người để hủy diệt nó.
Danh sách các việc
tốt như trong các câu 35-36 được nhắc
lại, nhưng được rút ngắn lại. Những
người thuộc nhóm bên tả nầy đã không làm cho
Chúa Giêsu đúng những điều mà những
người công chính đã làm. Lần
nữa Chúa Giêsu khẳng định qua những việc làm
cụ thể tương quan mật thiết giữa
Người với những người thiếu thốn.
Trong câu 41, nhóm người bên tả nầy
tóm lại những việc đáng lý họ phải làm cho
Chúa Giêsu trong động từ diakoneò,
“phục vụ”. Họ đã không phục vụ,
nghĩa là đã không giống như Người (20,28), và không được chúc phúc như
Người và nhóm người bên hữu.
Lời của
vị vua kết thúc ở câu 45, và sau cùng là lời của
thánh sử (c. 46). Lời kết nầy lập lại lời
của Chúa Giêsu trong hai câu 34 và 41 về việc
thưởng/phạt cho hai nhóm người. Việc
thưởng/phạt nầy mang tính cách đời
đời, aiònios, “cực
hình đời đời”, “sự sống đời
đời”. Vậy trong ngày phán xét,
người công chính và người bị chúc dữ sẽ
được tách ra cách dứt khoát và đời
đời.
Khi ngày phán xét cùng
tận đến, mỗi người sẽ
được phán xét theo việc họ
đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm
phán số phận mỗi người, hoặc
được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ
không bao giờ có thể thay đổi nữa.
|