DỤ NGÔN CÁC NÉN
BẠC
(Mátthêu
25,14-30 – CN XXXIII TN - A)
1.-
Ngữ cảnh
Về
phương diện văn
chương và đề tài,
“Dụ ngôn Những nén bạc” (Mt 25,14-30) được đặt trong ngữ
cảnh là chương Mt 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn
từ cuối cùng của Tin Mừng I,
ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Câu truyện
đặt đối diện hai nhân vật: một ông
chủ và các đầy tớ. Ở đây giống như trong Dụ
ngôn Mười trinh nữ, có những đầy tớ “tốt” và những đầy tớ “xấu”. Khi ông chủ
trở về, người ta không còn có thể thay đổi tình thế được nữa,
mà phải chấp nhận vĩnh viễn tình thế ấy.
Tuy nhiên, ở ngay chỗ bắt đầu bản văn, có từ “bởi vì” (gar). Từ này nối bài dụ ngôn với câu
trước là 25,13 và làm cho bài dụ ngôn này nối với bài
trước như sau: “Vậy
anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. Bởi vì cũng như có người kia sắp đi xa…”.
Vậy bài dụ ngôn biện minh cho việc phải “canh thức/tỉnh thức”. Dĩ nhiên, tác
giả Mt không hiểu từ ngữ này theo nghĩa chữ,
nếu không ngài đã chẳng dùng lời khuyến cáo này làm câu kết
cho một dụ
ngôn trong đó
các trinh nữ đều đã ngủ cả. “Canh thức” là ở trong tư
thế luôn “sẵn sàng” đối
với cuộc
Phán xét, mà mình không biết ngày giờ.
Nếu dụ ngôn Các nén bạc nói về “canh thức” thì phải có những ý tưởng liên hệ
tới đề tài này. Chúng ta thấy ở c. 19, tác giả cho biết rằng ông chủ trở về
“sau một thời gian lâu dài”. Chi tiết này tương tự chi tiết của bài trước: “vì
chú rể đến chậm…” (25,5); chi tiết này lại nhắc đến một chi
tiết có trước trong dụ
ngôn Người đầy tớ trung tín, trong đó
người đầy tớ nói: “Còn lâu chủ ta mới về” (24,48). Những câu này nêu ra vấn đề
các Kitô
hữu đang
phải đương đầu vào cuối thời các tông
đồ do cuộc Quang Lâm đến chậm: Đức Kitô chậm trở lại như thế, có thể khiến các
Kitô hữu thất vọng (x. 2 Pr 3,4),
sẽ mất sự bền bỉ. Do đó, cần phải nhấn mạnh đến đề tài “canh thức” với các sắc
thái khác nhau của đòi hỏi này. Mt diễn tả bổn phận canh thức qua các tĩnh
từ dùng cho các đầy tớ: “tài giỏi và trung thành”, hay là “tồi tệ và biếng
nhác”.
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Giới thiệu các nhân vật và chủ đề (25,14-18):
a)
Ông chủ giao tiền trước khi ra đi (cc. 14-15),
b)
Thời gian giữa thời điểm ông chủ ra đi và trở về (cc. 16-18);
2)
Tính sổ với ông
chủ (25,19-30):
a)
Câu mở (c. 19) và Cảnh người đầy tớ tốt thứ nhất (cc. 20-21),
b)
Cảnh người đầy tớ tốt thứ hai (cc. 22-23),
c)
Cảnh người đầy tớ xấu (cc. 24-30. Hoặc: Người đầy tớ xấu: cc. 24-28; Nhận định
chung kết: cc. 29-30).
3.-
Vài điểm chú giải
-
nén bạc (15):
Một talanton Israel khoảng 35kg bạc
(x. Xh 25,39; 1 V 9,14…), còn một talanton Hy
Lạp (1 Mcb 11,28; 2 Mcb 3,11; Mt 18,24…) thì khoảng 21-26kg. Nói chung,
có thể cho rằng một nén
bạc bằng 10.000 quan (một quan
là công một ngày
làm việc). Ngoài các nghĩa tượng trưng đã được gán
cho “nén bạc” (khả năng, các trách nhiệm, thì giờ, các của cải…), ý nghĩa của
“nén bạc” tương ứng nhất với Tin
Mừng Mt là “Tin
Mừng”,
hoặc tốt hơn, là sự hiểu biết mỗi người có về Tin
Mừng (c.
15: “tuỳ khả năng riêng mỗi người”). Sự hiểu biết này phải được chuyển
thành hoa trái phục vụ và bác ái đối
với người
khác.
-
được giao ít mà anh đã trung thành (21.23):
Lời khen này có thể khiến độc giả nghĩ đến những gương mẫu trong quá khứ, như
Môsê hoặc Đavít: lúc đầu Thiên Chúa đặt các ngài chăn dắt các đàn vật trước
khi giao cho các ngài những nhiệm vụ lớn lao hơn.
-
niềm vui (21.23):
Hẳn đây là niềm vui hai người đầy tớ tốt cảm nhận khi được vào
hưởng bữa tiệc thiên sai, chứ không phải là niềm vui của ông chủ cảm nhận do
lý do gì ta không biết.
-
Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm (29):
Công thức có lẽ là một câu
tục ngữ (x. 13,12), hoặc một câu
nói của Đức
Giêsu đã
bị tách khỏi ngữ cảnh, được Mt đặt
ở đây. Câu này tóm dụ ngôn rất khéo: vào ngày Phán xét chung (bản
văn Hy
Lạp là
“sẽ được ban
cho” là một công
thức ở thái bị động tuyệt đối, để nói về hành động của Thiên
Chúa,
và động từ ở thì tương lai gợi đến một hành
động cánh chung của Thiên
Chúa), ai có, tức là đã trung thành trong những chuyện nhỏ của cuộc sống trần
thế, sẽ nhận được một phần thưởng lớn;
còn kẻ nào không có gì, tức đã bất trung hoặc lười biếng, sẽ bị trừng phạt
nghiêm khắc.
-
chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến
răng (30):
Hình phạt này chỉ có thể là cuộc trầm luân đời đời (x. Mt 22,13).
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Giới thiệu các nhân vật và chủ đề (14-18)
Dụ
ngôn bắt đầu với từ hai từ nhỏ đáng chú ý: “cũng như” (hôsper) và “bởi vì” (gar, “vì chưng” [NTT]; “quả thế” [CGKPV]). Với từ “cũng như”, bài dụ ngôn mới này
dường như liên kết với c. 13 nói về canh thức. Còn với “bởi vì”, bài này triển
khai câu cuối của dụ ngôn trước (25,13: “Vậy
anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”).
Thật ra, cả bài nhắc nhớ đến các truyện Đức Giêsu đã kể trước đây: truyện Tên
mắc nợ không biết thong xót (18,23-35: các từ có chung là “các yến vàng”,
“tính sổ”) và nhất là truyện Người đầy tớ trung tín (24,45-51: các từ có chung
là “đầy tớ trung thành”, “đặt lên”/“giao [nhiều]”, “ông chủ [các] tên đầy tớ
ấy”, ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”).
Mọi
chuyện xảy ra giữa ông chủ và các tôi tớ. Ông chủ chuẩn bị đi xa, đã ký thác
công việc quản lý tài sản ông cho các đầy tớ. Trong
thời gian ông đi vắng, các đầy tớ này phải vận dụng khả năng mà làm cho số bạc
đã nhận sinh lãi. Như
vậy, các tôi tớ này không tự do và độc lập, nhưng họ
ở trong một tương quan lệ
thuộc và phục vụ. Họ thuộc về ông chủ; những gì được ký
thác cho họ là của cải của ông chủ và những gì họ làm sinh ra từ đó là sở hữu
của ông chủ. Họ bị ràng buộc với chủ nhiều cách.
Nhân
vật chính là một ông chủ giàu có, nhưng dù
vậy, ông không muốn để cho vốn của ông nằm đó, càng không muốn cho các đầy tớ
của ông chỉ biết nằm ngủ. Dường như điểm sau này là mối quan tâm chính của
ông. Với tám nén bạc, ông có thể tự mình đưa đến ngân hàng hoặc đầu tư cách
nào khác; ở đây ông lại muốn giao phó số bạc cho các trung gian. Ông đã
bỏ một lối
xử sự đảm bảo hơn, như ông cho biết trong mẩu
đối thoại với tên
đầy tớ biếng nhác, mà chọn lấy một cách
phiêu lưu hơn, mục đích chỉ để họ chứng tỏ sự cần mẫn (c. 27) và chịu khó. Nét
bất thường này cho thấy rằng mục tiêu đầu tiên của ông không phải là lợi
nhuận nhưng là
xem xét các khả năng, sự sẵn sàng, óc sáng kiến nơi các thuộc
cấp. Nhưng
cách làm ấy cũng chứng tỏ ông tin vào thiện chí của họ. Ông không muốn họ chỉ
là những kẻ lệ thuộc, nhưng là những cộng sự viên có lương tâm. Để thẩm định
óc sáng tạo và chuyên chăm, ông không xác định cách thức họ phải theo. Mọi sự
được phó mặc cho chọn lựa của họ. Nếu ông phân phát các nén bạc tùy theo khả
năng của từng người, là để cho mọi người có cơ hội làm ra một năng suất tối
đa, chứ không phải là thiên vị người này hơn người kia. Lời nhận xét của người
đầy tớ vô tích sự: “Thưa
ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không
vãi”
(c. 24) xác nhận cách xử sự của ông chủ và hơn nữa việc ông tín thác công việc
cho các cộng sự viên. Lẽ ra biết ông chủ là người nghiêm khắc, người đầy tớ
càng phải ra sức mà làm việc, thay vì ươn ái bất động như
thế!
Hai
người tôi tớ tốt bắt tay vào việc tức khắc. Họ sử dụng của cải
đã được giao
cho họ theo cách tương ứng với ý
muốn của ông chủ. Họ tuân theo các mục tiêu của ông và bảo vệ của cải lợi lộc
cho ông. Cách làm của họ đã đưa lại hoa trái dồi dào.
Người
tôi tớ thứ ba mang yến bạc đến trả lại cho chủ, không hơn không kém. Ngay từ
đầu, anh đã có một tương quan sai lạc
với chủ. Anh ta thấy ông là một con
người cứng rắn, anh trách ông là gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông (25,24t).
Anh nhìn nhận mình lệ thuộc ông, nhưng không quy phục ông với lòng tin tưởng
và cần mẫn. Anh cảm thấy sự lệ thuộc của mình gay go và áp bức và tức giận với
ông như đối với một kẻ bóc lột bắt kẻ
khác làm việc cho mình và sống nhờ công lao của những kẻ khác. Do đó, anh từ
chối phục vụ và không hành động theo ý muốn của chủ. Anh không phung phí của
cải được giao và không tiêu xài cho mình. Anh chỉ để nó ở đấy không sinh lợi
và trả lại cho chủ y như đã nhận. Những lời nói của anh chao đảo giữa sự nghi
ngờ, phản đối và sợ hãi. Anh bị kết án không phải bởi vì anh đã không đạt được
con số như các đồng nghiệp, nhưng bởi vì anh không vận dụng một sáng kiến nào cả, dù là việc dễ hơn như bỏ
số bạc vào ngân hàng (dễ hơn cả việc đào lỗ chôn giấu nén bạc của chủ!), dễ
nhưng phiêu lưu hơn, nên cũng nặng trách nhiệm hơn. Lỗi của anh là đã chôn
giấu một của cải tự nó phải sinh
lời.
*
Tính sổ với ông
chủ (19-30)
Sau
một thời gian lâu dài, ông chủ trở về và gọi các tôi tớ đến tính sổ. Cảnh tính
sổ với ông
chủ được chia
thành ba hồi nhỏ: Ba người đầy tớ đến gặp chủ, mỗi người nói ra cách mình đã
làm với số
bạc của chủ và nghe ông đánh giá.
Trường
hợp hai
người đầu thì hoàn toàn song song: người đầu như thế nào, thì người thứ hai
như vậy (mỗi người được dành
cho 2 câu); người thứ ba được
đặc biệt lưu ý (anh được dành cho 7 câu, hoặc ít ra là 5 câu, nếu tách cc.
29-30 ra như là phần thêm vào sau).
Về phương diện văn chương, bốn câu dành cho hai người đầu làm
thành một đơn
vị văn chương được dùng
làm đối trọng cho người đầy tớ thứ ba. Như vậy, trong thực
tế, chúng
ta có một
phép đối ngẫu: điểm giáo huấn quan trọng nằm trong sự tương phản giữa hai
người đầu với người thứ ba. Trong một dụ
ngôn có đặc tính đối ngẫu như thế, điểm nhấn luôn nằm nơi vế thứ hai của thế
đối ngẫu (x. các dụ ngôn trong các Tin
Mừng và Tl 9), vế thứ nhất
chỉ nhằm làm rõ vế hai mà thôi.
Họ
đã báo cáo lại cho chủ đầy đủ và được ông
không tiếc lời khen ngợi. Ông nhìn nhận họ là những tôi tớ tốt lành và trung
tín. Một tôi tớ tốt lành thì chấp nhận trọn vẹn vị trí của mình và ra tay phục
vụ chủ. Người ấy không theo các ý riêng hoặc các cảm hứng riêng, không tránh
né chủ, nhưng tự
đồng hóa với các
mục tiêu và quyền lợi của chủ. Một tôi tớ tốt lành thì ân cần chăm sóc của cải
đã được giao
phó cho mình với lương
tâm. Sau khi hai tôi tớ đã được thử
thách, ông chủ có thể giao phó cho họ các nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông mời gọi họ
đến niềm hạnh phúc viên mãn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”
(25,21.23). Tin
Mừng rất
thường nói đến việc “đi vào Nước Trời” (x. 5,20; 7,21; 18,3),
“vào trong cõi
sống” (18,8t; 19,16) và bây giờ “vào trong niềm
vui”. Những
ai trung tín thì được chấp nhận cho thông phần Nước Trời, nghĩa là được sự
sống viên mãn và niềm hạnh phúc vô tận. Ông chủ không đẩy các tôi tớ ra xa,
nhưng chấp nhận họ vào trong môi trường sống của ông, trong cuộc sống hạnh
phúc viên mãn của ông. Chúng ta không thể đạt tới mục tiêu này và mức sống
viên mãn nhờ dựa vào sức riêng, hoặc nhờ đi qua một nẻo đường chọn riêng, nhưng chỉ nhờ phục
vụ Chúa. Hai người tôi tớ nhận được phần thưởng như nhau, phần thưởng này
không được xác định bởi mức độ đóng góp của họ, nhưng bởi mức độ là sự chuyên
cần và trung tín.
Còn
kiểu tính toán của người đầy tớ cuối cùng là một tính toán sai lầm; trong khi anh tưởng
được yên thân khỏi bị quy trách, anh đã làm hại quyền lợi của ông chủ. Anh trả
lại “nguyên xi” nén bạc đã nhận, nghĩ rằng như thế là “cân bằng thu chi”: anh
vừa lười biếng lại vừa ngu ngốc. Ông chủ gọi anh là đầy tớ tồi tệ và biếng
nhác (c. 26), một kẻ đã hoàn toàn làm hỏng cuộc đời của chính mình và lệnh
truyền đã nhận. Bởi vì anh đã tránh né chủ, bây giờ ông chủ cũng tránh né anh.
Ông không cho anh vào hiệp thông đời sống với ông, nhưng cho quăng anh ra
ngoài, nơi đó không có niềm vui, nhưng chỉ có khóc lóc vì đau đớn và nghiến
răng vì giận dữ vì sự hư hỏng chính mình đã gây ra cho mình (x. 8,12). Đây là
một cuộc sống trong tối tăm, trong sợ
hãi và tuyệt vọng.
+
Kết luận
Cho
dù cuộc Quang lâm có đến chậm, các Kitô hữu cần phải luôn “canh thức” với ý
nghĩ là cuộc Phán xét sẽ đến và lối sống của họ sẽ bị thẩm định để xem có được
vào hưởng niềm hoan lạc hay không. Sự canh thức này cũng đồng thời là sự trung
thành chu toàn các nhiệm vụ đã được giao phó, tức là tất cả các bổn phận thuộc
đời sống Kitô hữu. Xét như thế, bài này có những liên hệ với bài dụ ngôn Người
đầy tớ trung thành (24,45-51). Người đầy tớ trung thành là người không những
biết chu toàn mộtsứ mạng đã được giao phó vừa
theo mặt chữ vừa theo tinh thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong
chiều hướng những gì ông chủ có thể chờ đợi nơi họ.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Giống như các tôi tớ trong dụ
ngôn, chúng
ta, cùng với những
gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không có gì thuộc về chúng
ta; các khả năng của chúng ta từ Ngài mà đến. Tuy nhiên, không phải mọi người
đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên Chúa cho từng người thì
khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có thể là các đức tính,
các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn nhấn mạnh là sự tin
tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu chu toàn ý muốn của
chủ.
2.
Thiên Chúa dùng các cộng sự viên để thực hiện các kế hoạch của Ngài. Ngài
không tự mình làm nhưng nhờ trung gian các người thân tín. Những người này cần
phải nhận ra cách xử sự như thế của Thiên Chúa là một vinh dự cho mình, để mà ra sức quảng đại
đáp lại sự chờ đợi của Người. Đời sống Kitô hữu không phải là một nếp sống tĩnh hoặc nghỉ ngơi thoải
mái.
3.
Không phải chỉ tránh sự dữ là đủ; còn cần phải vận dụng tất cả các năng lực và
chính đời sống mình mà làm điều thiện. Ơn gọi Kitô hữu là một số vốn bấp bênh; đây không phải là một món tiền chết, nhưng là một quà tặng phải được làm cho sinh lời với óc
khôn ngoan, chăm chỉ và tình yêu. Mỗi Kitô hữu phải lấy tinh thần trách nhiệm
và can đảm mà làm việc.
4.
Thời gian hiện tại là nhà băng thử thách để đưa tới định mệnh tương lai. Ai đã
chứng tỏ mình biết dấn thân làm việc sẽ được giao phó cho một hoạt động cao hơn; ai ươn ái và lười biếng
sẽ mất cả số vốn của mình và thậm chí bị loại khỏi Nước
Trời.
5.
Chúng ta chỉ có một cách
đạt tới cùng đích của đời
sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo ý Ngài tất cả
những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không thể sử dụng
theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng và phương
thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ đó cho
chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong sợ hãi
Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn
nhiệm vụ của chúng ta.
Lm
FX Vũ Phan Long, ofm
--
|