KỶ LUẬT CỦA GiÁO HỘI VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC
KITÔ
(Mátthêu
18,15-20 – CN XXIII - A)
1.- Ngữ
cảnh
Với
ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến
đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được
chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ
nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến
“người anh em phạm tội” (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn:
con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau
đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I.
Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A.
Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B.
Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C.
Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc.
12-14)
II.
Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A.
Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc.
15-20),
B.
Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C.
Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
2)
Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
3)
Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
3.- Vài điểm chú
giải
- Người anh
em (15): Từ
ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống
trong một gia đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan
với nhau trong một cộng đoàn thiêng liêng. Cũng như các “con cái
Israel” thuộc về cùng một “nhà”, các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ
nhân danh Người, làm thành một “nhà thiêng liêng” (x. 1
Pr 2,5).
- phạm
tội (15): TM
Mt chưa bao giờ xác định rõ “phạm tội” ([h]amartanô) có nghĩa
là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ
“làm cớ cho sa ngã” (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là
một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc
giả biết là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của
“người anh em”.
- sửa lỗi nó,
một mình anh với nó (15): Đây không
phải là một lời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu.
Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự
(“Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách
người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó”). Phái Êxêni ở Qumrân
cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền:
“Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng
hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà”. Xem thêm Văn kiện
Đamát 9,2-8).
- chinh
phục (15): Động
từ kerdainô có nghĩa là “thủ đắc được, chiếm được” vật gì.
Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là “chinh
phục một con người”. Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ
mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1
Pr 3,1).
- không
nghe (17): Động
từ parakouô có nghĩa là “nghe những gì không nhắm cho tai họ;
nghe không đầy đủ; nghe không đúng đắn”, nên cũng có nghĩa là “không nghe;
không vâng lời”.
- một người
ngoại … một người thu thuế (17): Ở đây, hai
hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm
biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh thần phục
thiện.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
Đức
Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như một hiệp hội các cá nhân,
trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan tâm
đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với những ai
đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được Nước Trời
(x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người
đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có
trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối
quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối
với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc
đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy
hoán cải.
Đi
trước các lời dạy về cách chăm sóc một người anh em có lỗi là
một đoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với
mỗi một tín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì
(18,10-14). Mỗi con người có một giá trị vô song, bởi vì họ luôn
luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không một ai bị Thiên Chúa quên
lãng một lúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ giúp của
Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của
Giáo Hội (15-17)
Vấn
đề là người anh em “phạm tội” (ho adelphos hamartêsê). “Tội” là một
điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người
có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức
về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị
trực tiếp liên lụy đến do tội của người anh em (“đối với anh; chống lại
anh”, eis se). Tuy thế, “tội” mà một thành viên phạm đối với một
thành viên khác không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh.
Có một xác tín trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một
tội đều ảnh hưởng đến toàn thể Hội Thánh.
Về
mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ
nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu
nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách
dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người chứng, người anh em có tội
không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là đề cập đến những thiếu sót của kẻ
khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm, để “tranh thủ” người ấy. Vậy, ở
đây không được nóng giận (x. Lv 19,17).
Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân
cận ở Lv 19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em
Israel phải là cách diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới
bên trong lòng Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực:
“chinh phục (ekerdêsas) được người anh em” (x. 1
Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em
về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp
độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối thoại
riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có lỗi về sự
thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ ràng là lời
nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng
cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng
như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả
hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào
những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng đoàn.
Tính
cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng đoàn càng
hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ
giữa vòng ít người, “nếu nó không nghe (parakousê) họ”, thì phải đưa ra
trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong
tư cách không tách biệt, nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức
Giêsu đã thiết lập trên “tảng đá” Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người
Kitô hữu, nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố một phán đoán dứt
điểm, nhằm nói rằng một hành vi có phù hợp hay không với các quy
tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh,
thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: “hãy kể nó như một người ngoại hay một
người thu thuế”. Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn
của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để
làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc về
một cộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm
bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm
một quy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại
phán đoán của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc,
thì được cứu (x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng
đoàn.
* Cầm buộc và
tháo cởi (18)
Rất
có thể câu nói về “cầm buộc và “tháo cởi” này đã thuộc về truyền thống có
trước Mt. Nếu Hội Thánh có thể công bố một phán đoán
dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là
vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này
phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x.
16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách
thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy các
trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội
Thánh.
* Sự hiện diện
của Đức Kitô (19-20)
Thêm
vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin) tác giả nói đến
một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội
họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung (cấp độ thứ
hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng
hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu
nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu
có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện
tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu
chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Ở
cuối lệnh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em
mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 18,19t). Người ta sẽ không còn thấy
được Người, nhưng Người sẽ hiện diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh
Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc một mình, nhưng được
Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế
với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy
tụ là “danh Đức Giêsu”. “Danh” là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều
quen biết; “nhân danh” có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu
biết rõ ràng Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là
một cuộc quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của
Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của
Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc
cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự
hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết
luận
Tình
huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc
một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”),
nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác,
do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội
Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng
những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả
những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ
được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Hội
Thánh.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Như người mục
tử không bỏ rơi nhưng đi tìm một con chiên lạc, Thiên Chúa cũng
không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó của Thiên
Chúa, không một ai được phép nói về một người anh em:
Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến
người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười
biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái cực
kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
2. Đức Giêsu tha
thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành một cộng
đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ
sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt 4,18-25).
Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường của mình và không
quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu (x. 18,15). Đàng khác,
một nhóm lo lắng săn sóc một anh em có tội (c. 16) thì
phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu,
để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
3. Đức Giêsu
không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau
và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề
nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta
hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời,
không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”. Đây là bổn phận
săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một người anh em chị
em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một người anh em chị em đang
rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu,
một sự trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu
trách nhiệm về nhau.
4. Chúng ta đi
cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh
Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi
chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu
nguyện, chúng ta nên một trong Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm
thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
Lm FX Vũ Phan
Long, ofm
|