CHÚA BẢO GÌ CỨ LÀM THEO! (Ga 2,5)
Chúng ta biết thuyền các Tông Đồ gặp sóng
gió sau khi Đức Giê-su hóa bánh cá cho dân ăn
no nê. Đó là dấu chỉ người Ki-tô hữu dù mỗi
ngày được ăn Bánh Hằng Sống
(rước Lễ), nhưng vẫn còn gặp sóng gió. Có nhiều
loại sóng gió :
* Sóng gió Chúa cho phép xảy đến để huấn
luyện con người, như núi lửa, động
đất, bệnh tật, sự chết. Sóng
gió này xảy ra trong một giai đoạn. Sở
dĩ Chúa cho phép sự dữ này xảy đến là muốn
nhắc hết mọi người : Trái
đất chỉ là quán trọ, ai cũng phải chuẩn
bị cho ngày ra đi định cư nơi Quê
Hương vĩnh viễn. Muốn được
thế, phải luôn chuẩn bị cho ngày chết của
mình. Ông Pascal, nhà Toán học, Vật lý và Triết gia
nói : “Vũ trụ có khả năng đè bẹp tôi,
nhưng tôi vẫn hơn cả vũ trụ, vì vũ trụ
không biết gì về chiến thắng của nói, còn tôi,
tôi biết về sự chết của mình”. Như vậy
ông Pascal có ý nói : Người nào biết
chuẩn bị hành trình cho ngày ra khỏi thế gian, người
ấy quý hơn giá trị cả vũ trụ cộng lại.
Vậy để chuẩn bị cho ngày ra đi cuối
đời, Chúa muốn ai cũng nhớ đến thân phận
yếu hèn của mình, bất lực trước đòi hỏi
nên giống Cha trên trời (x Mt 5,48) mà
ăn năn sám hối, xin Chúa thương xót. Chính vì vậy
mà thánh Tông Đồ đã khiêm tốn và can đảm thú
nhận tội mình với giáo đoàn Roma :
“Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi,
nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự
thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự
thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không
muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19).
Khi cầu nguyện, Tông Đồ Phao-lô đã nhận ra rằng
Chúa cho phép sự dữ xảy đến để ông khỏi
tự cao tự đại về những mạc khải
cao siêu Chúa ban và để quyền năng của Thiên Chúa
được thể hiện trọn vẹn trong con
người yếu đuối ! (x 2Cr 12,7-10).
Như thế các loại sóng gió trên cần thiết phải
xảy đến để con người biết sợ
tội, biết sợ sự chết mà sống tốt
hơn.
* Sóng gió do tại lỗi con người tác động
vào thiên nhiên không đúng ý Chúa. Ngày nay chính quyền các nước
trên thế giới luôn cảnh giác về nạn phá rừng
cách bừa bãi, hoặc thải khí độc
hay hóa chất vào môi trường sống. Bởi
vì nếu không ngăn chặn được việc
làm vô trách nhiệm này, thì chắc chắn sinh nhiều bão tố,
lụt lội, hoặc làm thay đổi khí hậu trái
đất, sẽ gây tai họa lớn cho loài người,
và nó sẽ không dừng lại theo thời gian. Nhưng sóng
gió kinh hoàng nhất, gây hậu quả khủng khiếp
hơn nữa là con người không thực
hành Lời Chúa,chỉ làm theo ý mình. Đan cử :
1/ SÓNG GIÓ DO TỘI ADAM, EVA NGHE SATAN XÚI GIỤC NÊN ĐÃ
HÀNH ĐỘNG THEO Ý MÌNH, mà không
quan tâm, không tin tưởng vào giá trị Lời Chúa, hậu
quả gây sóng gió : vợ chồng đố kị nhau, con
cháu họ chém giết nhau, gây oán thù mỗi ngày mỗi gia
tăng (x St 3-6).
Những sóng gió trên đây xảy ra
trước Phục Sinh, không độc ác, không đau
đớn bằng những sóng gió gây ra bởi những
người Đức Giê-su đã tuyển chọn.
Vì không thực hành lời Mẹ Maria dặn “Giê-su bảo
gì cứ làm theo” (Ga 2,5). Thực vậy,
trình thuật thuyền các môn đệ gặp sóng gió trên biển
(x Mt 14,22-33 : Tin Mừng) báo trước
sóng gió Hội Thánh phải đương đầu, sau
khi Chúa Giê-su đã đánh gục tử thần đi vào
vinh quang với Cha. Bởi vì những chi tiết xảy ra
trong trình thuật này được lặp lại sau khi
Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại :
SÓNG BIỂN TRƯỚC CHÚA PHỤC SINH
- Vào buổi chiều, sau khi làm phép lạ hóa bánh, Đức
Giê-su lên núi cầu nguyện một
mình (x Mt 14,22)
- Thuyền môn đệ gặp sóng gió (x Mt 14,24).
- Canh tư đêm tối, Đức Giê-su
đi trên biển đến với các môn đệ (x Mt
14,25)
- Môn đệ thấy Đức Giê-su lại tưởng là ma !
(x
Mt 14,27)
- Đức Giê-su trấn an các môn
đệ : “Hãy vững lòng, Thầy đây, đừng
sợ !” (x Mt 14,27)
- Đức Giê-su truyền cho ông
Phê-rô đi trên biển mà đến với Ngài (x Mt 14,29).
- Ông Phê-rô vẫn còn sợ sóng gió, nên
ông kêu lên : “Lạy Thầy, xin cứu con !” (x Mt
14,30)
- Đức Giê-su mắng các môn
đệ : “Hỡi kẻ kém lòng tin, sao lại hoài nghi?”
(x Mt 14,31b)
- Đức Giê-su giơ tay nắm lấy
ông Phê-rô!
(x
Mt 14,31a)
|
SÓNG GIÓ NIỀM TIN SAU CHÚA P.
SINH
+ Vào buổi chiều, sau bữa tiệc ly, , Đức
Giê-su cầu nguyện một mình ở núi Cây Dầu (x Lc
22,39t ; Lc 23,34)
+ Chúa Giê-su sống lại rồi mà các môn đệ vẫn
còn run sợ, cửa nhà các ông luôn đóng kín (x Ga 20,19)
+ Vào canh tư đêm tối, lúc tảng sáng, Chúa Giê-su Phục
Sinh đến với các môn đệ đang ngồi run
trong căn phòng đóng kín cửa ! (x Ga 20,1t)
+ Chúa Giê-su Phục Sinh đến với các môn đệ,họ la lên: Ma kìa! (x Lc 24,27)
+ Chúa Giê-su Phục Sinh nói với
các môn đệ : “Bình an cho anh em !” (x Ga 20,19)
+ Ai muốn đến với Chúa Giê-su Phục Sinh, phải
qua nước Bí tích Thánh Tẩy (x Mt 28,19).
+ Trong mỗi Thánh Lễ, kẻ sợ tội phải kêu lên : “Xin Chúa Ki-tô, thương xót chúng con
!”
+ Chúa Giê-su Phục Sinh mắng các môn đệ: “Chậm
tin !”
(x Lc 24,25) Ngài sai họ đi loan báo Tin Mừng khắp thế
gian, “trong số đó có kẻ còn hồ nghi” (Mt 28,17)
+ Kẻ tin Chúa đưa tay nắm lấy Chúa Giê-su
Phục Sinh (rước lễ).
|
Như vậy, sóng gió về Đức Tin sau Tử
Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su vẫn diễn ra
dường như bất tận. Đan cử :
- Những
người được Chúa Ki-tô cứu chuộc vẫn
còn gặp đau khổ : Các môn đệ đều bị
hành hạ, bị giết chết chỉ vì nhiệt
tình giảng Tin Mừng ; các tín hữu, nhất là giáo
đoàn Roma suốt 300 năm bị đế quốc
Roma trù dập không trông sống nổi! Nhất là ông
Phao-lô dù được Chúa ở cùng, nhưng ông không
thoát khỏi nỗi đau khổ bởi những
người đồng chủng, đồng đạo
gây nên, vì họ chỉ tin vào thế lực Luật Mô-sê
mà được trở nên công chính, chứ không tin vào
Chúa Giê-su. Bởi đó họ đã gây đau khổ cho
ông, như ông nói : “Lòng tôi rất
đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không
ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng
bào của tôi theo huyết thống,
mà tôi bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì
tôi cũng cam lòng. Họ là người Israel, họ
đã được Thiên Chúa nhận làm con, được
Người cho thấy vinh quang, ban tặng các Giao Ước,
Lề Luật, một nền phụng tự và các lời
hứa ; họ là con cháu các tổ phụ,
và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống,
cũng cùng một nòi giống với họ”
(Rm
9,2-5 : Bài đọc II). Mỗi lần ông bị người
đồng chủng, đồng đạo tấn
công, họ đều đánh ông tối đa 39 roi (x
2Cr 11,24). Tông Đồ của Đức
Giê-su đau khổ như thế cũng chẳng lạ
gì, ngay vị đại ngôn sứ Ê-ly-a sau khi đã
thành công dâng lễ trên núi Carmen, ông còn giết luôn các
tư tế thờ thần Baal, nên ông bị vua Akhaz
truy nã, ông vội chạy trốn lên núi, xin Chúa ra tay che
chở,trong lúc ấy ông chợt thấy gió xé núi non,
đập vỡ đá, rồi lại thấy động
đất, sau lại thấy lửa bốc cháy, ông
tưởng là Chúa đang bày tỏ sức mạnh
đến để bênh đỡ ông, nhưng ông không
thấy Chúa hiện đến, sau đó ông nghe tiếng
gió hiu hiu, lúc đó Chúa mới hiện diện, ông lấy
áo choàng che mặt rồi ra đứng ở cửa
hang đón Ngài (x 1V 19,9a.11-13a : Bài đọc I). Chúa đến
trong làn gió hiu hiu là báo trước ngày Chúa Giê-su ra tay cứu
độ loài người, Ngài lội xuống sông
Gio-đan để ông Gioan làm phép rửa, lúc ấy
Thánh Thần Chúa xuất hiện qua làn gió hiu hiu nghe
như tiếng chim câu bay đến (x Mt 3,16b). Chúa Thánh
Thần là Dầu Chúa Cha dùng xức trên Chúa Giê-su, để
Ngài thi hành quyền Vua cứu độ loài người
- Giáo
sĩ bỏ việc chính mà làm việc phụ. Cụ thể
các môn đệ vì được dân tín nhiệm, họ
bán cả tài sản lấy tiền đặt cả
dưới chân các ông, để các ông phân phát đồng
đều cho mọi người, không còn người
giàu, kẻ nghèo (x Cv 2,42t). Vì quá bận
rộn công việc này nên các ông đã xao nhãng việc cầu
nguyện và giảng Lời. Hậu quả gây sóng gió
trong cộng đoàn, vì trong việc phân phát lương
thực hằng ngày, các bà góa bị bỏ quên (x Cv 6,
1-7).
Sự cố trên ngày nay vẫn còn tiếp diễn
nơi hàng giáo sĩ, hầu hết các ngài bận rộn
lo việc mục vụ như xây Nhà Thờ, chăm lo cho
người nghèo, hoặc tổ chức những lễ hội
linh đình, nên không còn giờ để cử hành các Bí tích
cách tích cực và chu đáo, nhất là không đủ giờ
đọc kỹ các Bài đọc trong Thánh Lễ,
để tìm ra sợi dây giáo lý xuyên suốt theo đúng quy
định trong Hiến Chế Phụng Vụ số 24 : “Trong
việc cử hành Phụng Vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối
quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh trích từ Thánh
Kinh những Bài để đọc, những Bài để
dẫn giải trong Bài giảng. Phải xúc tiến việc
canh tân, phát triển và thích ứng Phụng Vụ, cần
phải phát huy lòng mộ mến Kinh Thánh đậm đà
và sống động”, và số 52
: “Bài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh, để
trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và những quy tắc
cho đời sống Ki-tô giáo trong suốt chu kỳ năm
Phụng Vụ, rất đáng được coi như một
phần của chính Phụng Vụ”. Bởi thế, nếu
không giảng đúng quy luật Phụng Vụ này, thì không
còn phải là giảng Lời Chúa, trở thành kẻ nói dối,
Kinh Thánh nặng lời kết án loại này : “Nơi con
người, nói dối là điều đê tiện xấu
xa,kẻ dốt nát cứ luôn mồm nói dối. Trộm cắp
còn đỡ hơn nói dối, nhưng cả hai đều
chuốc lấy hư vong. Kẻ quen nói dối là kẻ
vô liêm sỉ,nỗi nhục không bao giờ
rời xa nó.” (Hc 20,24-26).
Thực vậy, ngôn sứ Kha-nan-gia tự cho mình nhân
danh Thiên Chúa mà nói những điều đẹp lòng mọi
người : dân không còn cảnh lưu
đày, ông chứng minh bằng việc lấy gông gỗ
đang đeo cổ ngôn sứ Giê-rê-mi-a mà bẻ nát
quăng đi. Nhưng hành động ấy ông chỉ dối
gạt, không đúng ý Chúa, nên Chúa phán với ngôn sứ
Giê-rê-mi-a rằng : “Hãy đi nói với
Kha-nan-gia Chúa phán thế này : ngươi đã bẻ gãy cái
gông bằng gỗ, thì hãy làm những cái gông bằng sắt
thế vào. Quả thật, Ta sẽ quàng một cái ách bằng
sắt vào cổ tất cả các dân này, khiến chúng phải
làm tôi Nabukodonosor, vua Babylon.
Ngay cả những giống vật ngoài đồng,
Ta cũng trao cho nó”.
Như vậy ông Kha-nan-gia vì nói dối mà dân phải khổ
hơn trước, và ông phải chết vào tháng thứ bảy
năm ấy (x Gr 28,1-17).
Ngày nay rất nhiều chủ chăn không có tinh thần
giảng giống Chúa Giê-su,cũng chẳng
giống các Tông Đồ. Thực vậy, ta cứ đọc
Tân Ước cho thấy
1.
Đức Giê-su giảng
cho dân tới ba ngày, họ phải bỏ việc, bỏ ngủ,
nhịn ăn để nghe Ngài, mà chẳng
thấy ai phàn nàn. Đức Giê-su thấy thế Ngài chạnh
lòng thương, nói với các môn đệ :
“Ta xót thương dân này bởi đã ba ngày rồi họ
lưu lại với Ta mà không có gì ăn! Để họ
nhịn đói mà lui về thì Ta không muốn, kẻo họ
xỉu mất dọc đường” (Mt 15,32). Nhưng không phải lúc nào Ngài giảng
cũng được mọi người chấp nhận.
Đan cử có lần Đức Giê-su giảng về Bí
tích Thánh Thể, một chủ đề quan trọng nhất,
thế mà toàn dân và nhiều môn đệ phê bình Ngài ăn nói sống sượng, nên nhất loạt
quay gót bỏ đi! Dù vậy Ngài cũng không hối hận
vì bài giảng của mình, Ngài còn thách thức cả Nhóm
Mười Hai : “Cả các
ngươi, các ngươi không muốn bỏ về hay sao?”
(x Ga 6,22-71).
2.
Ông Phao-lô đến phục
vụ tại Trôa suốt một tuần lễ, ngày cuối
cùng ông giảng tới sáng khiến anh Êutykho từ lầu
ba ngủ gật nhào đầu xuống đất, anh
đã chết. Thế mà ông Phao-lô không cho ai đưa xác anh
đi, ông ôm anh đặt nằm dưới chân và tiếp
tục giảng cho đến sáng. Chấm dứt bài giảng
anh Êutykho cũng hòa vào dòng người ra về trong vui vẻ.
Điều này chắc chắn là nhờ Đức Tin của
ông Phao-lô, vì ông xác tín rằng cứ giảng Lời Chúa,
không làm ai phải chết, dù có chết cũng sống lại
bình an (x Cv 20,7t).
Nhìn hai mẫu giảng như trên, cho chúng ta xác tín : Người giảng Lời Chúa có quyền
bắt người khác nghe, không chiều theo ý ai. Thánh
Phao-lô nói : “Nếu tôi luôn làm hài lòng
người đời, tôi không còn là nô lệ của Đức
Ki-tô” (Gl 1,10), và giáo dân phải quảng đại, phải
từ bỏ những nhu cầu cần thiết cho thân xác
để có nhiều giờ đến nghe Lời Chúa
để không thua các tín hữu thuở ban đầu.
Tiếc rằng bữa ăn nuôi
thân xác ai cũng thích ngồi lâu để dùng nhiều món,
chẳng ai quan tâm đến thời giờ. Trái lại bữa
ăn nuôi linh hồn thì người ta rất
sợ nghe giảng nhiều điều!
Để nhấn mạnh người giảng
Lời cần có nhiều giờ để trình bày nhiều
điều giống Chúa Giê-su và người nghe cần phải
quảng đại dành nhiều thời gian mới đón
nhận được tất cả những điều
Chúa muốn nói. Thánh sử Luca ghi lại cho chúng ta hai
chứng từ đáng phải suy nghĩ :
1.
Người giảng cần
có nhiều thời giờ. Đức Giê-su mới lên 12 tuổi
theo cha mẹ đi lễ đền thờ Giêrusalem, cuộc
lễ kéo dài một tuần, sau khi mọi người ra về,
Ngài còn trốn cha mẹ ở lại để trao đổi
giáo lý với các bậc tấn sĩ (x Lc 2,41-52).
Rõ ràng Đức Giê-su muốn Phụng Vụ Lời Chúa
không phải chỉ được kéo dài trong Thánh Lễ theo Luật, mà cần phải bổ túc thêm.
2.
Người nghe cần phải
quảng đại dành nhiều thời gian. Ông hoạn
quan nước Á, dù là người ngoại giáo ông cũng
đi lễ ở đền thờ Giêrusalem, lễ xong
trên đường về, ngồi trên xe ông mở Sách Thánh
đọc, dù không hiểu, Chúa thương tình sai Phó tế
Philip đến giải thích Thánh Kinh và ban Thánh Tẩy cho
ông (x Cv 8,26-40). Điều này Kinh Thánh muốn nhấn mạnh : Cả đến người ngoại
sau khi dự Lễ ra về còn muốn tiếp tục tìm
hiểu Lời Chúa. Trong khi đó những người
“đạo gốc” thì chỉ muốn Phụng Vụ Lời
Chúa càng vắn càng tốt!
Nhìn vào Hội Thánh trên hoàn vũ, nhiều nước
trước đây có sức truyền giáo mạnh, nhưng
hôm nay chẳng còn mấy người muốn đến
Nhà Thờ, vì họ đã không thực hành lời Đức
Maria dạy : “Chúa bảo gì cứ làm theo”, mặc dù
xác tín Lời Chúa rất cần thiết trong cuộc sống
như trình bày ở trên. Kìa sau lụt Hồng Thủy, con
cháu Noe muốn xây dựng tháp Babel chạm Trời để
lưu danh muôn thuở, khi họ còn chung một ngôn ngữ,
tháp cứ thế mà vươn lên, nhưng khi họ bất
đồng ngôn ngữ, thì việc xây tháp bất thành (x St
11). Con cháu Noe đó chính là hình ảnh những người
qua nước Bí tích Thánh Tẩy vào Hội Thánh như vào tầu
Noe xưa (x 1Pr 3,20t). Ngày nay nhiều người Công Giáo bỏ
đạo hoặc không muốn đến Nhà Thờ,
cũng chẳng hy vọng kết thúc cuộc đời sẽ
được “chạm Trời” (lên Thiên Đàng), trừ
khi các Nhà Thờ Công Giáo, mọi chủ chăn đều dựa
vào các bản văn Kinh Thánh mà Hội Thánh đã chọn
đọc trong Thánh Lễ, để trình bày các mầu nhiệm
Đức Tin và những quy tắc cho đời sống
Ki-tô giáo trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ (x Hiến
Chế Phụng Vụ số 52).Có như thế, hàng giáo
sĩ mới thực hiện giáo huấn của Công Đồng
Vat.II trong Sắc Lệnh Đời Sống Các Linh Mục
số 4 : “Dân Chúa được quy tụ trước
nhất là nhờ Lời Chúa, Lời này đặc biệt
phải tìm thấy trên môi miệng các Linh mục, vì Linh mục
mắc nợ giáo dân về Lời Chúa”.
Đức Hồng y Yves Congar, một Thần học
gia nổi tiếng, ngay trước khi chưa được
tấn phong Hồng y, ngài đã đóng vai trò quan trọng
trong việc soạn thảo các Bản Văn CĐ Vat.II,
cho nhận xét rất chí lý : “Tôi có thể trích dẫn một
loạt các bản văn để quả quyết rằng
: một giáo xứ suốt ba mươi năm không có Thánh
Lễ,chỉ nghe giảng Lời cách cặn kẽ, thì chắc
chắn về mặt Đức Tin của họ rất vững
mạnh và Đức Ái sống động tuyệt vời,
hơn hẳn một giáo xứ suốt ba mươi
năm giáo dân chỉ dự Lễ mà không được
nghe giảng”.
Chính vì vậy mà thánh Phao-lô nói : “Đức
Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai
tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải
bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức
Ki-tô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,17).
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã lưu ý và nhắc
nhở cho các mục tử : “Một nỗi nguy hiểm
thường xảy ra nơi các giáo sĩ, là họ quá
hăng say trong những công việc của Chúa, mà quên mất
Chúa là Chủ công việc”.
Thánh Augustin nói mỉa mai : “Bạn chạy
khỏe lắm, nhưng trật đường mất rồi”.
- Sóng
gió gây chia rẽ trong Hội Thánh. Dựa vào các sự cố
Hội Thánh gặp sóng gió trên đây, ta có quyền xác
tín rằng đó lý do làm cho nhiều tín hữu ly khai với
Hội Thánh. Thật vậy,
1.
Sở dĩ có anh em Chính
Thống Giáo hoặc Anh Giáo, vì họ không tin Đức Giáo
hoàng là thủ lãnh Chúa đặt làm dấu chỉ hiệp
nhất trong Hội Thánh thay quyền Chúa Giê-su.
2.
Sở dĩ có nhiều
giáo phái Tin Lành, vì họ không tin quyền giáo huấn Chúa trao
riêng cho Hội Thánh, họ xác tín rằng ai tin vào Chúa Giê-su
cũng có Chúa Thánh Thần soi sáng để hiểu Kinh Thánh
và đem ra thực hành, họ đã không quan tâm đến
lời xác tín của thánh Phao-lô : “Thiên
thần nào từ trời đến giảng Tin Mừng
khác chúng tôi, thì đó là đồ chúc dữ!” (Gl 1,8).
Về Quyền Giáo Huấn, ta biết Chúa chọn ai và
cho ai công bố Lời Chúa là quyền tự do của Ngài,
Chúa đã trao thì không bao giờ rút lại, dù người ấy
có điều bất xứng. Đan cử
1.
Bà Miriam và ông Aharon thấy
ông Mô-sê lấy vợ ngoại người Kush,
là gây gương xấu, cho nên họ nói với nhau : “Dễ chừng Thiên Chúa chỉ phán dạy
ngang qua ông Mô-sê hay sao? Người đã không phán dạy
ngang qua chúng ta nữa đó ư?” Chúa liền lên tiếng trách : “Tại sao các ngươi dám nói phạm
đến Mô-sê tôi tớ của Ta”, và khí nộ Thiên Chúa bừng
cháy phạt họ : Bà Miriam bị phung hủi như tuyết”
(x Ds 12).
2.
Ông Phê-rô được
Cha trên trời mạc khải riêng cho, và Đức Giê-su
đã đặt ông làm nền tảng xây dựng Hội
Thánh. Thế nhưng sau đó ông Phê-rô bị Đức
Giê-su mắng là satan, vì ông đã khuyên Thầy đừng nộp
mạng mình cho kẻ ác, đó là dấu Chúa không
thương (x Mt 16,17-23). Thế mà
Đức Giê-su vẫn trao sứ mệnh chăm sóc Hội
Thánh cho ông một cách dứt khoát, cụ thể ba lần
Ngài tra hỏi ông về tình yêu đối với Ngài, mỗi
lần ông thưa có, thì Ngài lại trao cho ông quyền
chăn dắt đoàn chiên của Ngài (x Ga 21,15t).
Hai chứng từ trên cho ta xác tín rằng
: Chúa đã trao quyền công bố Lời Chúa cho ai,
Ngài không bao giờ rút lại, dù người đó còn bất
xứng!
Vậy muốn được Chúa “đổi phong
ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm bỗng đâu im tiếng, họ vui
sướng vì trời yên biển lặng, và Chúa dẫn
đưa về bờ bến mong chờ” (Tv
107/106,29-30), thì ta hãy cầu nguyện : “Lạy Chúa xin tỏ
cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu
độ cho chúng con”(Tv 85/84,8 : Đáp ca). Vì “mong
đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở
Lời Người” (Tv 130/129,5 : Tung
Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Với ai yêu mến Thiên Chúa, thì Ngài đồng công cộng
tác biến mọi sự nên tốt đẹp! (Rm 8,28)
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
|