NẾU HẠT LÚA MIẾN CHẾT ĐI,
THÌ SẼ SINH NHIỀU BÔNG HẠT.
Bài giảng
của ĐGM. Giuse Võ Đức Minh
(Ga 12, 24-26)
Kính thưa Cộng đoàn phụng
vụ,
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào
biểu tượng hạt lúa miến, được
hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ
đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc
biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã
được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân
Phước để nêu gương cho mọi thành
phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình
đức Tin giữa dòng đời.
“Nếu hạt lúa miến không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ”. Câu này
chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó
là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ
tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác,
để phục vụ kẻ khác. Nếu không như
thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ
trọi một mình” là đặc điểm của
cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì
thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh
rằng: hạt lúa miến chỉ đạt
được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp
nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ
sự sống và sự tăng trưởng của mọi
người.
“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh
nhiều bông hạt ”: Chắc hẳn trong đoạn Phúc
Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt
của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất
phải mục nát, phải thối rữa, phải
chết đi, tức là phải chấp nhận mất
căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng,
để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây
lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ,
tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một
hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa
mới. Đó là sự gia tăng về số
lượng. Đến lượt những hạt lúa mới
phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống,
cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là
chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để
trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với
men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử
thách của lửa để trở thành tấm bánh
thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con
người. Đó là sự gia tăng về chất
lượng. Đối với hạt lúa miến, một
cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ
ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng
là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì
thế, cái chết của hạt lúa miến
được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho
sự tự hạ, tự huỷ của Người
như bước chuẩn bị cần thiết cho
việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua
mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và
Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là
như một quy luật chi phối định mệnh
của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu
tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của
Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến
cũng là một huyền nhiệm.
“Máu các Vị Tử Đạo là
hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu
Kitô”.
Câu nói lừng danh này của Tertulianô có
giá trị trước tiên đối với dòng Máu của
Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã
đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo
cũng có được khả năng sinh sản thiêng
liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi
dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu
đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý
nghĩa đích thực của cuộc sống và cái
chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành
động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng
Lời Chúa.
Trước tiên, tử đạo có
nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp
nhận chết hoặc đổ máu mình ra để
khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối
hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết
để làm chứng triệt để như thế
đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu”
như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x.
Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô
đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự
hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ
Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy
thì, hành động của các Thánh Tử Đạo
chấp nhận chết vì đức tin cũng
được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và
nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và
“của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được
Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh
mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi
bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ
Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa
là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng
sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh
Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm
của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng,
được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi
khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài,
cũng giống như cái chết cứu độ của
Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân,
một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan
toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo
giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở
lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân
vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược
lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua
được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục
Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết
sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn
làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì
khiến tôi hy sinh nó được”[3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên
định trong sứ vụ làm chứng cho sự
thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu
Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử
Đạo Việt Nam.
Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu
thương thế gian đến nỗi ban Con Một,
để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải diệt vong, nhưng có sự sống đời
đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà
tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian,
“để phục vụ và hiến ban mạng sống làm
giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở
thành Con Đường cứu độ, dẫn tới
Sự Sống đời đời và vì thế Người
là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý
muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha.
Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin
Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo
Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc
dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo
Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả
đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết
để làm chứng trước mặt mọi
người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo
Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào
Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón
nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay
vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống
của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo
gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh
dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không
bờ bến đối với mọi người,
kể cả những người giết hại mình.
Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương
một cách cụ thể: không những Người dạy
các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và
cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình
(x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá,
đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ
giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê
Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo
Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng
trối với con trai của mình tại pháp trường:
“Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố
cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không
hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền
rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về
những lời đối đáp của các ngài với vua
quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự
với người thân của mình, chúng ta mới thấy
được điều kỳ diệu của
Đạo Tình Thương : Tình thương mạnh
hơn sự chết; Tình thương chiến thắng
hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm
truớc, tức vào ngày 24-11-1960,
Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc
chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm
Công Giáo tại Việt Nam.
Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về
hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã
được rất đông các Vị Tử Đạo
đón nhận cách quảng đại, sống và làm
chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân
lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài
chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của
Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại
chứng từ cao quý của các ngài để kích
động đức mến, gia tăng đức
cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị
thử thách bởi chính đời sống thường
ngày của chúng ta [6].
Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ
Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu,
để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền
nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh
nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia
sẻ cho đồng bào của chúng ta được
sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự
sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh
vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn
hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất
cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có
sự phát triển toàn diện của mỗi người
và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh
đó cho mọi người,
nhất là người nghèo và người bị gạt ra
lề xã hội, mới thực sự tạo
được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc
trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích,
nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự
hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và
giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó,
“xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa
của SỨ VỤ” [8] làm
chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.
------------
[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca
2.
[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca
1.
[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca
của Thánh ca Tin Mừng.
[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của
Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.
[5] Xem Huấn từ ĐTC
Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.
[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI
gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai
mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.
[7] Xem TLLV, chương II.
[8] Xem Sứ điệp Khánh
Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô
XVI.
|