Chứng
nhân
Trong những năm giảng dạy, có
lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con
sẽ làm chứng về Thầy”. Và chứng ấy là
“Người ta sẽ hành hạ và giết các con”. Dù không
thuộc lịch sử Giáo Hội cho lắm, chúng ta
đều biết rằng: Trong ba thế kỷ
đầu, Giáo Hội Công giáo đã bị bắt bớ,
hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người,
từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm
chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo
Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không
hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết
rằng: Đây là những trang sử oai hùng, những trang
sử mà không một trang nào lại không được tô
điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và
những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta
dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê
gớm.
Quả thực, có thể nói: Đạo
Công giáo đã được chính thức khai nguyên và
lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục
sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng
thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng
bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo
đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn
Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết
năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc
cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc
dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt
hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm
người được phúc tử đạo vào
thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm
1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc
liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến
thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại
quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam
đã phải đổ máu để gieo vãi hạt
giống Tin Mừng.
Suốt ba thế kỷ cấm
đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng
khi trầm, Giáo Hội Việt Nam
có được khoảng 100.000 vị tử đạo.
Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử
Đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Hiện nay cũng có mười vị được phong
“đáng kính” và 1.000 vị được kể vào bậc
“tôi tớ Chúa”. Cái chết của các vị tử
đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều
gì?
Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác
tín rằng: Những người chết vì Chúa như
thế được gọi là tử đạo, nghĩa
là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao
vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo
Hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng
đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy
máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho
một lý tưởng, nhưng là cho một việc.
Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng
chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người
ta có thể tưởng lầm rằng: Lý tưởng
ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng
chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng
khi người ta chết cho một việc thì khác, đó
chính là cái chết của các vị tử đạo:
Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh
hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi
người phải thán phục.Trước cái chết,
các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu
nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên
dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái
chết của các ngài có một ý hướng nhất định:
Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế,
danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là làm chứng, và
dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm
cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng
tin những truyện mà người thuật lại giơ
cổ cho người khác chém để làm chứng”.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Tử
Đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho
một số người, nhưng bổn phận làm
chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là
có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết
cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống
tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết
phục những người chưa có đạo,
những người không hiểu về chính nghĩa
của đạo bằng chính đời sống tốt
đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.
Người ta kể rằng: tại
Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có
nhiều giáo sĩ đã được gửi đến
truyền giáo tại nước này. Người ta đã
mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những
giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc
với dân chúng địa phương. tại một
lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi
học đầu tiên, bà giám đốc của
trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua
từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi
từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các
học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà
không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc
nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát
sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: “Quí vị đã
tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?”.
Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy
gì đâu? Có một người đứng lên nói: “Chúng tôi
chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ
để ý có một điều, khi bà đến lớp
này, bà đã xức một loại nước hoa thơm
quá”.
Cả lớp phá lên cười. Lúc
đó, bà giám đốc tươi cười nói: “Tôi
cố ý xức nước hoa thật nhiều để
quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra
được điều ấy là hôm nay quí vị đã
học được một bài rồi. Qua điều
ấy tôi muốn nói với quí vị rằng: Quí vị
sẽ sống khoảng hai năm ở nước này
như những người câm vì quí vị không nói
chuyện được với những người Trung
Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho
những người chung quanh quí vị một mùi thơm
đặc biệt qua nếp sống của quí vị,
để dầu không nói một lời nào, nhưng
người khác cũng vẫn nhận ra được
hương thơm của Chúa qua quí vị”.
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể
đem đến cho trần gian, cho những người
chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua
nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói
một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu
bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và
sống đầy đủ bổn phận làm chứng
của chúng ta.
|