CHÚA MONG MUỐN THẤY NIỀM TIN NÀO KHI NGƯỜI TRỞ LẠI?
Câu chuyện dụ ngôn hôm nay trình bày một phản diện, phản diện gay gắt với niềm tin vào một Thiên Chúa như Đức Giê-su trình bày. Phản diện trong hình ảnh ông quan tòa không có bất cứ niềm tin nào ‘Chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì’. Ông không có bất kỳ một lý do nào để xót thương bà góa nghèo hèn van xin ông giúp đỡ. Cuối cùng, chỉ vì không chịu nổi sự quấy rầy đeo bám, ông đã phải ra tay làm phước cho bà góa cô thế cô thân. Vị quan tòa vô tâm đó đã buộc phải tỏ lòng xót thương, dù chỉ là bề ngoài và bất đắc dĩ thôi.
Khi đem một hình ảnh tiêu cực đến như thế để đối chiếu với Thiên Chúa nhân lành: “Anh em nghe ông quan tòa bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ người đã tuyển chọn, hằng đêm ngày kêu cứu với Người sao?” chắc hẳn Đức Giê-su phải có một lý do gì sâu sắc lắm?
Trước hết ông quan tòa nọ đã bị chính Đức Giê-su gán cho thuộc từ ‘bất chính’. Ông bất chính không phải vì đã làm điều gì lỗi pháp luật. Không, tuyệt nhiên không! Tương tự như ông phú hộ trong câu chuyện ‘chàng La-da-rô nghèo khổ’, ông này bị Đức Giê-su gọi là ‘bất chính’ chỉ vì một lý do duy nhất: ông đã không có một chút lòng trắc ẩn, xót thương nào.
Điều này cho một gợi ý: thay vì tin vào một Thiên Chúa công chính, như người Do Thái thường gọi, căn cứ vào giao ước đã ký kết, thì Đức Giê-su, dầu vẫn dùng các từ ngữ cũ, mời gọi các môn đệ Người hướng tới sự công chính theo một nội dung hoàn toàn mới. Thiên Chúa công chính vì Ngài từ bi và giầu lòng xót thương (xem nội dung thư 1 Gio-an, đăc biệt các câu 2,29; 3,7). Ngài trọn vẹn công chính vì Ngài là Thiên Chúa trọn vẹn từ nhân. Yếu tính lớn nhất của Ngài là “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…thì khỏi bị lên án, nhưng được cứu độ” (Ga 3, 16-18). Dấu hiệu của Thiên Chúa từ nhân đó đã được nói tới trong Cựu ước là con rắn được Mô-sê giương cao trong sa mạc. Không may người Do Thái đã hầu như hoàn toàn quên mất hình ảnh này… Tân Ước biểu lộ tình yêu này bằng Thập Giá “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy” (Ga 3, 14)). Thiên Chúa của Đức Giê-su vẫn là Thiên Chúa ba lần Thánh, nhưng không phải vì sự thánh thiện cao xa tự tại nơi một mình Ngài. Ngài thánh vì Ngài yêu mến con người tội lỗi với tất cả lòng xót thương. Tôi ngạc nhiên khi nghe Đức Giê-su nói ‘Thiên Chúa yêu thế gian’. Sau này khi Gio-an cho định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”, ông đã không quên giải thích liền sau đó: ‘Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống’ (1Ga 4, 8-9).
Thế nhưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương như thế, một phản diện gay gắt với ông quan tòa bất chính trong dụ ngôn, ngay cả đối với Ki-tô hữu chúng ta cũng có thể trở thành rất mong manh. Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa xót thương vẫn có thể bị ngay chính các Ki-tô hữu mau chóng quên lãng.
Chưa khi nào ta từng thấy một Đức Giê-su bi quan và ngờ vực đến thế: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu ngài còn thấy niềm tin trên mặt đất nữa chăng?” Tôi thiết nghĩ: nếu là niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì cho dầu có thể bị thử thách tới mấy đi nữa, chắc chắn nó sẽ vẫn mãi mãi tồn tại nơi nhân loại. Niềm tin cầu khẩn với một Thiên Chúa quyền phép cũng sẽ không bao giờ kết thúc, kể cả khi con người đã hoàn toàn no đủ. Nhưng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương, và biểu lộ lòng tin này cách mãnh liệt trong cầu nguyện với thái độ tin tưởng phó thác như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã làm, thì lại luôn có nguy cơ bị nhạt nhòa, ngay cả trong chính Giáo Hội Công Giáo.
Lịch sử minh chứng, đã từng có những thời kỳ lòng tin vào Thiên Chúa xót thương đã hoàn toàn bị lu mờ ngay trong Giáo Hội. Thay vào đó người ta đề cao và quảng bá một Thiên Chúa công thẳng luận phạt tới mức đáng sợ. Sự phổ biến của học thuyết Giăng-sê-nít hay Thanh Giáo một thời trong suy nghĩ của nhiều tín hữu và giáo sĩ cho thấy điều đó. Lòng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ rất có nguy cơ bị biến mất. Cũng may, việc quảng bá học thuyết thánh Phan-xi-cô Sa-lê (Salesian spirituality), và gần đây hơn, việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa cho thấy niềm tin này đang có dấu hiệu phục hồi. Rất mong lòng tôn sùng này sẽ sớm trở thành một niềm tin chân chính chứ không chỉ là những việc đạo đức trống rỗng...; để rồi một khi trở lại trong vinh quang Thập Giá, Người sẽ vui mừng thấy niềm tin này đã lan rộng trong Hội Thánh và trên toàn trái đất.
Công việc của tôi, linh mục của Đức Ki-tô cứu độ và xót thương, chính là thắp lên và chăm sóc cho ngọn lửa niềm tin này lớn mạnh nơi các tâm hồn tín hữu.
Lạy Chúa từ nhân, đã có một lần Chúa ngự đến trong giờ chết của con, và may mắn thay lần đó Chúa còn tìm thấy niềm tin này còn tồn tại nơi con. Xin Chúa tiếp tục phát huy và duy trì trong con, và trong tất cả tâm hồn các Ki-tô hữu, niềm tin vào Thiên Chúa từ ái xót thương; để bất cứ khi nào Chúa đến, cho dầu có đột ngột tới mấy, Chúa vẫn tìm thấy niềm tin này tiếp tục tồn tại nơi con, và nơi tâm hồn các tín hữu con phục vụ. Xin Chúa tiếp tục củng cố đức tin này nơi chúng con. A-men
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
|