THÁNH PHAN-XI-CÔ TRẦN VĂN TRUNG, Cai Đội Tử Đạo, 6/10
Gương Thánh nhân
“Là công dân Việt Nam , tôi sẵn sàng đi đánh giặc bảo vệ tổ quốc. Nhưng tôi không bao giờ đạp lên Thánh giá bỏ đạo chối Chúa, vì tôi là con dân của Chúa”.
Đó là lời thánh Phan-xi-cô Trung tuyên bố trước mặt các quan, khi bị bắt ép bỏ đạo. Nó nói lên tất cả tấm lòng trung tín keo sơn của vị anh hùng đối với Thiên Chúa và tổ quốc. Đối với quê hương trần thế, ngài sẵn sàng phục vụ để xây dựng bảo tồn; đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo dựng và cứu độ ngài, ngài cũng chu toàn bổn phận tôn kính phụng sự. Ngài không thể vì tổ quốc mà bỏ Chúa, cũng chẳng vì Chúa mà chểnh mãng nghĩa vụ công dân. Ngài xứng đáng là tấm gương kính Chúa yêu nước cho mọi Ki-tô hữu. Phan-xi-cô Trần Văn Trung sinh năm 1825 tại Phan-xá, tỉnh Quảng Trị. Cha là quân nhân dưới thời vua Minh Mạng. Lớn lên, cậu nối nghiệp cha, gia nhập quân đội. Nhờ tài giỏi và nhiệt thành trong phận vụ, cậu được thăng chức cai đội.
Năm lên 24 tuổi, anh kết hôn với một thiếu nữ đồng đạo. Hai vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc, sốt sắng thờ phượng Chúa, sinh được bốn người con. Vì thế, ngoài ra bổn phận trong quân ngũ, anh còn có trách nhiệm giáo dục con cái, thánh hóa gia đình. Lúc đó, anh cùng 11 bạn đồng nghiệp phải tham dự một cuộc khảo thí theo quy luật quân đội. Theo tình thế lúc bấy giờ, muốn cho việc thi cử được kết quả, cần phải hối lộ với quan trên. Chẳng may sau khi nhận tiền của đút lót, các quan chia chát với nhau không đồng đều; tranh giành cải vả với nhau thấu đến tai vua, nên cả 12 cai đội đều bị tống giam vào ngục.
Năm 1858, quân đội Pháp đánh chiếm Cửa Hàn. Vua Tự Đức cần người chiến đấu chống xâm lăng. Vua truyền cho các tù nhân, ai tình nguyện đánh giặc sẽ được phóng thích. Cai đội Trung và các bạn đồng đội hăng say hưởng ứng. Nhưng vua sợ các binh sĩ Công giáo phản bội, theo Pháp chống lại triều đình, nên buộc đạp lên Thập giá, trước khi xuất quân ra trận. Tất cả đều tuân hành lệnh vua, chỉ trừ cai đội Trung. Các quan thấy vậy hỏi:
- Sao mi không đạp lên Thập giá? Mi có đạo phải không? Vị chiến sĩ đức tin đáp:
- Phải. Tôi là người Công giáo. Tôi sẵn sàng đi chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Nhưng tôi không bao giờ chối Chúa bỏ đạo, vì tôi cũng có bổn phận thờ kính và làm chứng cho Chúa tôi. Lời công bố chân thành đó xác định rõ lập trường của người Công giáo chân chính: là công dân, họ sẵn sàng phục vụ và bảo vệ tổ quốc; là môn đệ Chúa, họ nhiệt thành thờ kính và phụng sự Chúa. Lúc bình thường, hai bổn phận đó có thể đi đôi với nhau; nhưng lúc khó khăn bách hại, bổn phận làm chứng cho Chúa phải được đặt lên hàng đầu.
Chính vị anh hùng Phan-xi-cô Trần Văn Trung đã thực hiện đúng như thế. Thế là số phận của ngài đã được định đoạt: ngài phải chịu tù ngục xiềng xích vì đã trung thành với Chúa. Điều làm cho mọi người cảm phục vị anh hùng tử đạo hơn nữa, là mặc dầu bị tù ngục xiềng xích khổ sở, bị tra tấn hành hạ đau đớn, ngài không nghĩ đến thân phận khốn khổ của mình, mà lo lắng khuyên bảo vợ con vui lòng hy sinh vì Chúa, trung thành bền đỗ tin theo Chúa. Và vì nhớ còn thiếu nợ vài người, ngài xin vợ coi đồ đạc gì trong nhà có thể bán được thì đem bán trả nợ, kẻo chủ nợ bắt con cái ở đợ trừ nợ khổ sở và không được tự do hành đạo. Thật đúng ngài quên mình vì gia đình, vì tổ quốc và Thiên Chúa. Trong hơn hai tháng tù ngục, nhiều lần ngài bị đánh đòn tra tấn, buộc bước qua Thánh giá bỏ đạo. Nhưng ngài bất chấp mọi khổ hình, sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao thử thách, kiên quyết giữ vững đức tin. Thấy không còn hy vọng khuất phục được ngài, các quan đệ án tử hình về Kinh. Vua Tự Đức chấp thuận. Và ngày 06 tháng 10 năm 1859, ngài bị điệu đi xử trảm (chém đầu) tại pháp trường An Hòa (Huế). Ngày 02 tháng 05 năm 1909, Đức Thánh Cha Pi-ô 10 đã phong Chân Phước cho ngài. Và Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô 2 suy tôn ngài lên Hiển Thánh, ngày 19 tháng 06 năm 1988. * Quyết tâm
Hy sinh lo cho gia đình được bình an hạnh phúc phần hồn phần xác, sẵn sàng bảo vệ xây dựng tổ quốc giàu mạnh, và trung thành bền đỗ tin thờ Chúa đến cùng, theo gương thánh Phan-xi-cô Trần Văn Trung tử đạo. * Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
|