CN 1845: NGÀY 30 THÁNG 4 CẦU NGUYỆN CHO QUÊ HƯƠNG
Chiều ngày 29 tháng 4, vợ chồng đi tham dự Thánh lễ tại nhà thờ Westminster và được nghe cha chủ tế Phạm Ngọc Tấn kể về chuyện di tản của cha. Câu chuyện cha kể rất thật và làm cho ai ai cũng ngậm ngùi và cảm động.
Sau đây là tóm tắt lời kể của cha Tuấn trong bài giảng tuởng niệm về quê hương Việt Nam sau đúng 38 năm:
“Hồi ấy tôi còn là một tu sĩ của dòng Đồng Công. Cha Bề Trên rất nghiêm khắc về vấn đề tu sĩ có liên hệ với phụ nữ. Các tu sĩ không được chụp hình với phụ nữ cho dù đó là chị em hay mẹ của mình.
Tôi nhớ ngày di tản của chúng tôi là ngày 28/4/1975, lúc đó có khoảng gần 200 tu sĩ cùng đi trên hàng chục chiếc thuyền, xuất phát từ Vũng Tầu. Trên tàu của tôi có hai, ba người lính mà do tình cờ cùng ngồi chung tuyền. Họ nhất định không muốn di tản mà chỉ muốn về Sàigòn với gia đình. Chúng tôi phải xúm nhau an ủi họ vì nếu họ khăng khăng trở về Sàigòn thì cả đoàn sẽ bị bắt hết.
Lúc ấy, người ta chết rất nhiều vì những người di tản từ miền Trung chạy vào miền Nam dọc đường trúng dạn pháo kích bị chết, có những người khác đi tàu thì bị rớt xuống biển.
Tình hình Việt Nam vào những ngày ấy rất hỗn loạn và kinh hoàng, đáng sợ. Lòng người xôn xao và chấn động tâm lý. Người nhà lạc nhau khóc lóc thảm thiết. Dad5n pháo bắn lạc phương hướng. Lính đào ngũ vất bỏ quân phúc đầy đường.
Khi chúng tôi lên được tàu thì ai nấy đều bị say sóng, ói mửa thốc tháo nên nằm la liệt như những xác chết, chỉ có tôi và một thầy khác là còn tỉnh táo đôi chút. Chúng tôi ai ấy đều đọc kinh cầu nguyện để xin được bình an đến nơi. Lúc ấy chúng tôi không biết là tầu sẽ đưa chúng tôi đi đến bến bờ nào? Không biết là được đến Phi Luật Tân hay Mã Lai?
Đi khoảng 5, 6 tiếng đồng hồ thì tôi thấy đèn đuốc ở ngoài biển sáng rực như ban ngày, thì ra chúng tôi đã ra đến Hải Phận Quốc Tế. Mừng rỡ quá sức nên hai anh em tôi la lớn lên:
“Gặp Tầu Mỹ rồi! Gặp Tầu Mỹ rồi!”
Không ai bảo ai, tất cả các tu sĩ dù đang say sóng nhưng đều ngồi bật dậy và chen chúc nhau leo lên tầu Mỹ. Rốt cuộc tôi lại là kẻ leo lên tầu sau chót. May mà chậm chân là chiếc ghe không người lái của tôi chạy xa ra khỏi tầu Mỹ thì kể như tôi mất mạng.
Lên được tầu Mỹ thì ai nấy mừng vui và cảm tạ Chúa. Các thủy thủ người Mỹ đem thực phẩm tới tiếp tể cho chúng tôi. Sau một thời gian thì họ cho chúng tôi đổ bộ lên đảo Guam.
Tới nơi chúng tôi ngạc nhiên vì đã thấy có sẵn nhà lều, đường xá, trạm y tế, trường học và mọi công trình được xây dựng xong cả. Trại của họ rất lớn có đủ sức chứa đến hơn 40 ngàn người. Khi chúng tôi tò mò hỏi xem họ xây dựng công trình này từ bao giờ thì họ nói rằng họ đã chuẩn bị từ hơn một năm nay rồi.
Tôi tạ ơn Chúa vì lòng tốt của những người Mỹ. Đến nay đã được 38 năm, chúng ta hãy hướng về quê hương và giáo hội Việt Nam để cầu nguyện cho những chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc, cho những thương binh hy sinh một phần thân thể cho quê hương, cho những linh hồn người vượt biên đường bộ và đường thuỷ, cho những người chết trong tù cải tạo và cho tất cả mọi người dân Việt Nam ở quốc nội cũng như ở Hải ngoại được bình an và yên vui.”
Chúng ta hãy kể lại cho các con cháu nghe những câu chuyện về cuộc di tản, cuộc vượt biên vô tiền khoáng hậu của dân tộc Việt Nam, của chúng ta cho các con cháu nghe. Nếu ta không kể cho con cháu nghe thì khi thế hệ của chúng ta chết đi thì các thế hệ con cháu không biết đến giá máu mà cha ông đã đổ ra để lập quốc, bảo vệ tổ quốc và giữ gìn tổ quốc; giá máu mà cha ông đổ ra trên đường đi tìm tự do và hạnh phúc.
Xin Chúa thương chúc phúc cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam được trường tồn và bình an, được tự do, no ấm và toàn vẹn lãnh thổ. Amen.
Kim Hà 30/4/2013
|