Chúa Nhật Tuần V Mùa Chay Năm C, Ngày 17 Tháng 3 Thánh Patrick (389?-461?) Truyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan. Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo. Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt giữ ngài. Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre. Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như "mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay" đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người. Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn. Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài. Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên. Lời Bàn Ðiểm đặc biệt của Thánh Patrick là sự bền bỉ trong các nỗ lực. Chỉ khi nghĩ đến tình trạng của Ái Nhĩ Lan lúc ngài mới bắt đầu truyền giáo, với phạm vi rộng lớn mà ngài phải lao nhọc và hạt giống đức tin mà ngài đã vun trồng hiện vẫn tiếp tục nẩy nở và phát triển, thì người ta mới thán phục con người của Thánh Patrick. Sự thánh thiện của một con người chỉ có thể nhận biết qua kết quả của họ. Lời Trích "Ðức Kitô che chở tôi hôm nay: Ðức Kitô ở với tôi, Ðức Kitô ở trước tôi, Ðức Kitô ở sau tôi, Ðức Kitô ở trong tôi, Ðức Kitô ở dưới tôi, Ðức Kitô ở trên tôi, Ðức Kitô ở bên phải tôi, Ðức Kitô ở bên trái tôi, Ðức Kitô ở với tôi khi nằm nghỉ, Ðức Kitô ở với tôi khi thức dậy, Ðức Kitô ở trong tâm hồn bất cứ ai khi nghĩ đến tôi, Ðức Kitô ở trong mắt những ai khi nhìn thấy tôi, Ðức Kitô ở trong tai những ai khi nghe lời tôi" (trích từ ca vịnh của Thánh Patrick). Trích từ NguoiTinHuu.com
* Ngày 17 tháng 3, THÁNH PA-TRI-XI-Ô Giám mục
* Gương thánh nhân:
Thánh Pa-tri-xi-ô sinh tại nước Anh, năm 373. Cha mẹ ngài rất đạo đức, đã huấn luyện ngài sốt sắng kính mến Chúa. Nhưng năm lên 16 tuổi, ngài bị nhóm hải tặc bắt đem bán làm nô lệ ở Ai-nhĩ-lan. Sáu năm trời làm nô lệ, ngài sống khổ cực thiếu thốn. An không đủ no, mặc rách rưới, suốt tháng này sang tháng khác, đi chăn heo, sống trong cảnh thiếu thốn tình thương gia đình cha mẹ!...Đau khổ nhất đối với thánh nhân là không được lãnh nhận các Bí tích. Không có nhà thờ đọc kinh dự lễ, vì lúc đó, dân Ai-nhĩ-lan còn thờ bục thần ngẫu tượng, chưa được biết Chúa. Nhưng trong những năm tháng dài khốn khổ đó, thánh nhân luôn hướng về Chúa, cầu khẩn Chúa. Ngài nhớ lại những lời cha mẹ dạy về lòng mến Chúa yêu người lúc còn ở gia đình, nên kêu xin Chúa cho ngài thoát cảnh nô lệ để ngài đem Chúa đến cho dân tộc ngoại giáo này. Hằng ngày, thánh nhân lo học ngôn ngữ phong tục của họ, chuẩn bị cho công cuộc truyền giáo sau này. Chúa đã nhậm lời ngài, cứu ngài thoát cảnh nô lệ. Ngài luôn cám ơn Chúa vì ơn lành này: “Tôi không ngớt cám tạ ơn Chúa của tôi, vì Người đã gìn giữ tôi trung thành trong ngày tôi chịu thử thách, khiến hôm nay, tôi có thể dâng hiến linh hồn tôi, như bánh thánh sống động là Đức Kitô, Chúa tôi, vì người đã gìn giữ tôi khỏi mọi cảnh ngặt nghèo, khiến tôi phải thưa: Lạy Chúa, con là ai, ơn gọi con là gì mà Chúa đã bao phủ con bằng thần tính cao cả như vậy? Đến nỗi ngày nay, bất cứ ở đâu, con luôn luôn nhảy mừng và ca tụng danh thánh Chúa ở giữa các dân tộc. Không những chỉ khi may mắn mà thôi,, mà cả khi gặp bỉ cực nữa. Dù có thể xảy ra cho tôi thế nào, lành hay dữ, tôi vẫn bình thản chấp nhận hết và luôn luôn tạ ơn Chúa. Chính Người đã cho tôi biết không được thôi tin tưởng vào Người là Đấng sẽ nhận lời tôi”. Thánh nhân đến nước Pháp, xin vào tu viện Mạc-mô chê. Ở đó, ngài sống đời cầu nguyện, hãm mình và chuyên cần học tập. Năm 432, ngài được thụ phong linh mục, rồi Giám mục. Và ngài lên đường trở lại Ai-nhĩ-lan, rao giảng đạo Chúa cho dân tộc ngoại giáo này như lòng ngài ước nguyện. Mặc dầu gặp nhiều chống đối khó khăn, thánh nhân vẫn kiên trì đem Lời Chúa giảng cho mọi người. Như lời ngài nói: “Và nếu Chúa thấy tôi xứng đáng, tôi sẵn sàng, không ngần ngại và hết sức sẵn lòng bỏ mạng sống mình vì Danh Người. Tôi thật muốn hiến đời tôi ở đó cho đến chết nếu Chúa thương chấp nhận. Là vì tôi mắc nợ với Chúa thật nhiều. Người đã ban cho tôi ơn trọng này là nhờ tôi, nhiều dân tộc đã tái sinh trở về với Chúa, và sau đó đã được hoàn thiện. Người cũng ban cho tôi được truyền chức ở mọi nơi để có hàng giáo sĩ coi sóc dân mới tin đạo; dân mà Chúa đã tuyển chọn từ mút cùng trái đất như Người đã hứa qua miệng các ngôn sứ: Muôn dân sẽ đến với Người từ mút cùng cõi đất”. Nhờ ơn Chúa giúp, thánh nhân đã đem cả nước Ai-nhĩ - lan về với Kitô giáo. Bí quyết thành công của ngài là cầ nguyện và hãm mình. Ban ngày đi giảng đạo, ban các bí tích giúp đỡ kẻ nghèo. Đêm đến, ngài đến quỳ trước bàn thờ, hướng lòng trí về Chúa. Ngài cầu nguyện gần suốt đêm, chỉ đi ngủ sau khi đã trình lên Chúa hết mọi việc ngài làm trong ngày, thành công cũng như thất bại… Và kêu xin Chúa giúp cho công việc hôm sau. Khi đi ngủ, ngài nằm đất, lấy đá làm gối, lấy áo làm mền để hãm mình ép xác. Ngài cũng dạy những kẻ cộng tác với ngài sống đời cầu nguyện và hãm mình như thế. Đó là khởi điểm đời sống đan sĩ của những nhà dòng ngài sáng lập. Nhờ ngài, mà đạo Chúa và nếp sống đan tu phát triển mạnh mẽ khắp nước Ai-nhĩ-lan. Ngài qua đời năm 464, và được chọn làm thánh bổn mạng nước Ai-nhĩ-lan. * Quyết tâm: Hằng ngày, tôi hãm mình, cầu nguyện cho công cuộc truyền gió của Hội thánh, và chính mình cũng nhiệt tâm rao giảng đạo Chúa, theo gương thánh Pa-tri-xi-ô. * Lời nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Giám mục Pa-tri-xi-ô đến rao giảng Tin Miừng cho dân tộc Ai - len. Vì công nghiệp và lời cầu của thánh nhân, xin cho những ai được mang danh Kitô hữu, biết không ngừng loan báo cho mọi người những kỳ công của Chúa.
|