Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn
Huấn
Bí tích hòa giải ( reconciliation) là một
trong các bí tích ban ơn cứu độ rất quan trọng và cần thiết mà
Chúa Kitô đã trao cho các Tông Đồ trước tiên và cho Giáo Hội
ngày nay cử hành để ban ơn tha thứ của Chúa cho các hối nhân còn
tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa.
Thật vậy, sau khi từ cõi chết sống lại và
hiện ra với các Tông Đồ, Chúa Kitô đã nói với các
ông như sau:
“ Anh em tha cho ai, thì người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” ( Ga 20: 23)
Trước khi thọ nạn thập giá, Chúa Giêsu cũng
đã trao quyền tha tội cho Phêrô, sau khi môn đệ này tuyên xưng
Chúa là “ Đấng Kitô, con Thiên Chúa
hằng sống.” (
Mt 16: 16)
“ Thầy sẽ trao cho anh chìa
khóa Nước Trời : dưới đất anh cầm buộc điều gì
Trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi
điều gì, trên Trời cũng
sẽ tháo cởi như vậy. “ ( Sđd : 20 : 19)
Trên đây là nền tảng Kinh Thánh của bí tích
hòa giải mà Chúa Kitô đã thiết lập và trao cho các Tông Đồ trước
khi Người về Trời.
Sở dĩ Chúa ban bí tích này là vì Người biết
rõ con người vẫn còn yếu đuối sau khi được tái sinh qua bí tích
Rửa tội. Còn yếu đuối và dễ nghiêng chiều về sự xấu trong bản
tính đã bị băng hoại vì Tội Nguyên Tổ ( original sin) cộng thêm
với ý muốn tự do ( Free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho
con người sử dựng, cho nên nguy cơ phạm tội còn đó . Vì thế
Chúa đã ban bí tích hòa giải để giúp con người nối lại tình thân
với Chúa sau khi đã lỡ phạm tội cá nhân vì yếu đuối và nhất
là vì ma qủi cám dỗ và gương xấu của thế gian. Bao lâu còn sống
trong thân xác có ngày phải chết này, thì bấy lâu con người
còn phải chiến đấu, hay bị giằng co giữa sự thiện và sự dữ,
giữa sự tốt và sự xấu trái nghịch nhau như ánh sáng và bóng
tối. Do đó, “ anh em hãy đứng
vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn
thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống
khổ như thế.” ( 1 Pr 5 : 8-9).
Đó là lời khuyên dạy của Thánh Phêrô Tông
Đồ.
I- Nhưng trước hết
phải hiểu rõ thế nào là tội và có mấy loại tội
Con người ngày nay, phần nhiều đã mất hết ý
thức về tội nên đã thi nhau làm những điều tự bản chất là sai
trái, là vô luân như ăn gian, nói dối, trộm cắp, dâm đãng,
ngoại tình, cờ bạc, giết người, phá thai, buôn bán ma túy, súng
đạn giết người, sách báo phim ảnh dâm ô, nhất là buôn bán phụ nữ
và trẻ em cho kỹ nghê mãi dâm, hoặc làm nô lệ tình dục cho
người nước ngoài dưới chiêu bài “hôn nhân ngoại quốc” hay “ lao
động nước ngoài”.Nhiều tín hữu cũng mất ý thức về tội nên đã coi
thường hay không muốn đi xưng tội nữa dù đã làm những việc mà
thực chất là có tội.
Những hình thức của tội lỗi nói trên đây
đã ít nhiều xúc phạm đến Thiên Chúa là tình thương, là công
bình và thánh thiện. Do đó, khi ta làm bất cứ điều gì xúc phạm
đến tình thương, sự công bình và thiện hảo thì đã xúc phạm đến
chính Thiên Chúa là hiện thân của Chân, Thiện Mỹ tuyệt đối.
Giáo lý Công Giáo cũng dạy rằng : “ Tội lỗi chống lại
tình thương của Thiên Chúa dành cho ta và khiến trái tim ta xa
lìa tình yêu đó. Cũng như tội nguyên thủy, tội lỗi của ta là
một sự bất phục tùng, một sự phản loạn chống lại Thiên Chúa…”
( x. SGLGHCG số 1850)
Thánh Phaolô đã liệt kê những tội con
người có thể phạm như sau :
“ Những việc do tính xác thịt gây
ra thì ai cũng rõ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ
quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, nghen tương, nóng giận,
tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và
những điều khác giống như vậy. Tôi bảo cho mà biết như tôi đã
từng bảo : những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng
Nước Thiên Chúa.” (
Gl 5:19-21 )
Thánh Gioan cũng quả quyết rằng “ Mọi điều bất chính
trên đều là tội.” ( Ga 5 : 17)
II- Giáo
Hội phân biệt tội thành hai loại : tội trọng và tội nhẹ
1-
Tội trong (
mortal sin) là tội tự bản chất nó là sự dữ như giết người, hiếp
dâm, ngoại tình., tiếp tay với quân khủng bố đặt bom giết hại
người khác, nhất là chối bỏ hay lăng mạ Thiên Chúa, Đức Mẹ và
các Thánh, công khai chối đạo …
Ngoài bản chất là nghiêm trọng,
tội trọng chỉ thành tội khi người ta đã biết rõ tính chất nghiêm
trọng đó mà vẫn
cố tình phạm với ý muốn tự do ( free will).Tội trọng
phá hủy hoàn toàn đức ái và và cắt đứt mọi tình thân đối với
Chúa vì đã chống lại Người cách quá nặng nề.
Do đó, nếu ai chết trong khi đang mắc tội
trọng mà không kịp xin tha qua bí tích hòa giải thì sẽ chiu hình
phạt hỏa ngục ( x. SGLGHCG số 1035)
2- Tội nhẹ ( Venial sin) : không
cắt đứt tình thân với Chúa nhưng cũng xúc phạm đến Người
và làm tổn thương phần nào đức ái ( x
SGLGHCG số 1855)
Đây là giáo lý của Giáo Hội mà mọi tính hữu
phải tuân thủ cho được hiệp thông với Giáo Hội trong mục đích
yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa và thực hành các giới răn của Người
hầu được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Cũng theo giáo lý của Giáo Hội thì mọi tội
nặng hay nhẹ đều có thể được tha qua bí tích hòa giải nếu hối
nhân còn tin tưởng nơi lòng thương xót tha thứ của Chúa và thật
lòng ăn năn sám hối. Chỉ có
một tội không thể tha được, đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần,
tức chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn và không còn tin tưởng gì nơi
lòng thương xót của Chúa nữa.
Liên quan đến bí tích hòa giải, không thể
quan niệm rằng người tín hữu trưởng thành không cần giữ Đạo cách
“cổ xưa” với việc tuân giữ luật lệ. Nếu việc tuân thủ mọi giới
răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội là không “hợp thời” và cần
thiết thì tạo sao Thiên Chúa lại ban 10 điều răn cho con người
tuân giữ để được chúc phúc và tại sao Chúa Kitô đã nói với các
môn đệ xưa điều này:
“ Nếu anh em yêu mến Thầy
Anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” ( Ga 14:
15)
Như thế, yêu mến Chúa đồng nghĩa với việc
tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Và nếu không tuân giữ thì
đã phạm tội chống lại Chúa là tình thương, công bình, bác ái và
thánh thiện, vì mọi tội con người có thể phạm đều liên hệ ít
nhiều đến các đặc tính trên đây của Thiên Chúa.Cụ thể : giết
người hay âm mưu sát hại người khác là chống lại bản chất yêu
thương, nhân từ của Chúa. Trộm cắp, gian tham, lừa đảo là phạm
đến sự công bình của Chúa. Dâm ô – đặc biệt là tội ấu dâm rất
khốn nạn ( child prostitution)- là xúc phạm nặng nề đến sự
thánh thiện, trong sạch của Chúa . Do đó, muốn sống đẹp lòng
Chúa và nhiên hậu được cứu độ thì mọi người có niềm tin yêu
Chúa phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội mới đẩy
chúng ta ra khỏi tình thương của Chúa là Đấng yêu thương và “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4) nhưng lại
gớm ghét mọi tội lỗi vì nó hoàn toàn đi ngược lại với bản chất
yêu thương, nhân từ , công bình và thánh thiện của Người.
III- Tại
sao cần phải xưng tội và xưng cách nào ?
Như đã giải thích ở trên, tội là một thực
thể và một thực tế ( entity and reality) trong trần gian và
trong mỗi người chúng ta. Không ai có thể nói là mình không có
tội nào như Thánh Gioan đã quả quyết : “ nếu chúng ta nói là
chúng ta không có tội
Chúng ta tự lừa dối mình
Và sự thật không ở trong chúng ta.” ( 1 Ga 1 : 8)
Nhận biết mình có tội thì lời mời gọi là hãy
sám hối và xin Chúa tha thứ. Chúa ghét mọi tội nhưng lại yêu
thương kẻ có tội biết ăn năn xin tha thứ, như Chúa Giêsu đã đối
xử với người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và bị bọn Biệt
phái dẫn đến xin Chúa cho ném đá. Chúa đã không ném đá và chỉ
nói với chị kia rằng “ ..Tôi
không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng
phạm tội nữa.” (
Ga 8: 11).
Qua lời Chúa trên đây, chúng ta hiểu rõ
lòng nhân từ và khoan dung của Chúa đối với kẻ có tội, nhưng
cũng không muốn ai lợi dụng lòng nhân từ đó để cứ phạm tội, cứ
lấy cớ Chúa yêu thương tha thứ để không quyết tâm cải thiện
đời sống và xa tránh mọi tội lỗi. Đành rằng là con người, ai
cũng yếu đuối trong bản tính, nhưng nếu ta quyết tâm và nương
nhờ ơn Chúa phù giúp thì chúng ta mới có thể đứng vững được
trước mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, ví như “sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn
xé” ( 1 Pr 5:
8), của xác thịt yếu đuối dễ sa ngã và của gương xấu đầy rẫy ở
mọi môi trường sống.
Nói rõ hơn, nếu ta không có thiện chí xa
lánh tội và mọi cơ hội đưa đến phạm tội, để rồi cứ sa đi ngã
lại, thì Chúa không thể cứu ai được mặc dù công nghiệp cứu
chuộc của Chúa Kitô là vô giá, và đủ cho ta được cứu rỗi.Nhưng
dù là đủ, Chúa vẫn còn mong đợi nơi thiện chí công tác của con
người vào ơn cứu độ, vì con người còn có tự do để cộng tác hay
khước từ ơn cứu độ và tình thương của Chúa để sống theo ý riêng
mình..Đó là lý do vì sao Chúa Kitô đã cảnh cáo những ai không
quyết tâm chừa tội và sống theo đường lối của Chúa mà cứ đi
hàng hai, nửa nóng nửa lạnh như sau:
“ Ta
biết việc các ngươi làm.: ngươi chẳng nóng và cũng chẳng
lạnh.Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi ! nhưng vì
ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra
khỏi miệng Ta” ( Kh 3 : 15-16)
IV-- Xưng
tội là một tiến trình hoán cải đả trở nên hoàn hảo hơn:
Như đã nói ở trên, Chúa Kitô ban bí tích hòa
giải vì Người biết trước con người sẽ còn phạm tội cá nhân nhiều
lần nữa, sau khi được rửa sạch một lần hậu quả của tội nguyên tổ
qua phép Rửa.
Phạm tội vì yếu đuối thì khác với cố tình
không quyết tâm chừa tội để rồi lại tái phạm nhiều lần nữa. Cha
giải tội có thể không ban phép tha tội nếu biết hối nhân cứ xưng
mãi một tội vì không cố gắng chừa bỏ..
Trong Tin Mừng Thánh Lu ca, để trả lời cho
một số người đến hỏi Chúa xem có phải những người Ga li-Lê
bị Tổng trấn Phi-la-tô giết chết, lấy máu hòa lẫn với tế vật là
vị họ tội lỗi hơn những người khác hay không, Chúa Giêsu đã trả
lời họ như sau :
“ …Không phải thế đâu. Nhưng
nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như
vậy.” ( Lc 13 : 3)
Như thế có nghĩa là chúng ta phải cố gắng
chừa tội và sám hối về những việc sai trái đã làm.
Sám hối là nhìn nhận mình có tội, ăn năn
chừa bỏ và mau kíp chạy đến với Chúa qua bí tích hòa giải để
được tha thứ và giao hòa lại với Chúa và với Giáo Hội.
Khi đi xưng tội , mọi hối nhân cần
lưu ý hai điều quan trọng sau đây:
1- Phải hoàn toàn tin tưởng có Chúa
Kitô hiện diện trong các
thừa tác viên con người là
Giám mục hay Linh mục.Chính Chúa
nghe và tha tội cho ta qua tay các thừa tác viên.
2- Do đó , phải thành thật xưng
các tội nặng nhẹ đã phạm
vì yếu đuối con người, kể cả
những tội kín thuộc các giới răn
thứ sáu và thứ chin. Nếu không thành thật xưng ra
Các tội mình đã phạm , nghĩa là
có ý dấu không xưng một tội nào thì việc xưng tôi sẽ
không thành và không đáng được
Chúa tha thứ qua trung gian của thừa tác viên.
( x SGLGHCG số 1505)
Xưng tội là dịp cho ta nhớ đến lòng thương
xót tha thứ của Chúa sau khi nhận biết tội lỗi mình đã xúc phạm
đến Chúa.Nhưng phải có quyết tâm từ bỏ tội với ơn Chúa nâng đỡ
để không sa đi ngã lại. Đây là tiến trình trở nên hoàn hảo hơn
như Chúa mong muốn cho mỗi người tín hữu chúng ta. Nói rõ hơn,
không phải cứ theo thói quen lâu lâu đi xưng tội để cho an tâm
rồi lại không quyết tâm từ bỏ tội lỗi nên lại tái phạm để rồi
lại đi xưng tội. Sống đức tin kiểu này thì quả thật xứng đáng để
nghe lời Chúa cảnh cáo trên đây.
Nói khác đi, phải quan niệm đúng đắn hơn về
bí tích hòa giải. Đây phải là phương thế hữu hiệu để giúp con
người không những lấy lại tình thân với Chúa mà còn giúp ta
dần dần trở nên hoàn hảo về mặt thiêng liêng qua quyết tâm từ bỏ
tội lỗi để trở nên thánh thiện như Chúa Kitô đã kêu gọi:
“ anh em phải nên thánh ( nên hoàn hảo) như
Cha anh em ở trên Trời là Đấng toàn thiện.” ( Mt 5: 48)
Trở nên thánh thiện hay hoàn hảo là trở nên
giống Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, là suối nguồn an vui và
hạnh phúc của các Thánh và các Thiên Thần. Do đó, phạm tội hay
sống trong tội là tự ý xa lìa Chúa và không muốn được cứu độ để
vui hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Tóm lại, Bí tích hòa giải không chỉ đơn
thuần tha các tội nặng nhẹ con người có thể phạm mà còn là
phương thế hữu hiệu để giúp con người trở nên hoàn thiện, qua
cố gắng xa tránh mọi tội lỗi để trở nên giống Chúa là Chân Thiện
Mỹ tuyệt đối..
Chính trong chiều kích thiêng liêng nói
trên mà mọi tín hữu được mời gọi cách riêng trong Năm Đức Tin
này là hãy siêng năng đến với bí tích hòa giải trong tâm
tình ca tụng và cảm tạ tình thương , tha thứ vô biên của Chúa
và cũng để nói lên quyết tâm cải thiện đời sống thiêng liêng
bằng cố gắng chửa bỏ dần dần mọi tội lỗi như một thiện chí muốn
trở nên hoàn hảo hầu xứng đáng được “ thông phần bản tính
Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây
ra trong trần gian này” như
Thánh Phêrô đã mời gọi ( 2 Pr 1 : 4).
Ước mong mọi quí tín hữu suy nghĩ và thực
hành mục đích của bí tích hòa giải trong Năm Đức Tin này.