THỜI
WTO, ĐE DỌA HAY CƠ MAY
CỦA
ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN ?
NGUYỄN TRỌNG
VIỄN
Trong bầu khí kinh tế thị
trường, chẳng những chúng ta có thể khám phá ra
được những nguyên lý vận hành tốt
đẹp trong đời sống Đức Tin của
người Tín Hữu Công Giáo, nhưng còn có cơ may
định hướng một cách chân thật hơn trong
nỗ lực mục vụ của các người lãnh
đạo trong Giáo Hội trong thời đại mới;
nhất là cơ may khám phá những giá trị đích
thực của Tin Mừng. Bởi vì cơ cấu của
một nền kinh tế thị trường, hoặc
mạnh hơn nữa là cơ cấu cạnh tranh khốc
liệt của thời đại WTO, mặc dù
trước mắt có thể làm suy
yếu nếp sinh hoạt rầm rộ
quen thuộc của Giáo Hội, nhưng đó cũng có
thể là một thách đố giúp cho sinh hoạt của
Giáo Hội Việt Nam tìm lại khuôn
mặt nguyên tuyền hơn của mình.
Một
sự thay đổi theo chiều
hướng tôn trọng "Thượng đế"
hơn
Thời kinh tế thị
trường, nhất là thời kinh tế hội nhập
vào trào lưu kinh tế của thế giới, thời
đại WTO, là thời đại người bán hàng
phải hết sức tôn trọng khách hàng, tôn trọng
như "thượng đế" vậy. Nguyên tắc ấy trước tiên, biểu
lộ một sự đảo ngược trọng tâm
của vận hành kinh tế; chính nhu cầu của
người tiêu dùng mới là điểm qui chiếu
của hoạt động kinh tế chứ không phải
một chương trình ít phản ảnh được
nhu cầu thực sự. Có lẽ điều
trước tiên sẽ xảy đến trong sinh hoạt
của Giáo Hội Việt Nam là: sống trong bầu khí
ấy, chắc chắn càng ngày người Tín Hữu
sẽ nhận ra sự phi lý, hoặc sự nặng nề
của tổ chức trong Giáo Hội Việt Nam,
đặc biệt là những Giáo Xứ hoặc những
Giáo Phận ít nhiều mang tính cách "toàn tòng", chúng ta
có thể thấy hầu hết vẫn vận hành theo
kiểu lấy ý muốn của cha xứ làm trọng tâm,
hoặc đặt ưu tiên cho một
trật tự ổn định, một nề
nếp quen thuộc của Giáo Xứ hơn là đáp
ứng những hoàn cảnh thực tế của đa
số người Tín Hữu.
Những hoàn
cảnh cá biệt thì dĩ nhiên là bị
loại trừ không thương xót. Các Linh
Mục, và cả các Giám Mục hình như vẫn quen
đánh giá một tập thể trong Giáo Hội theo tiêu chuẩn nề nếp chung, trật
tự chung, một thứ "chủ nghĩa xếp hàng"
nào đó buộc mọi người phải đáp ứng
những đòi hỏi như nhau để được
những ân huệ như nhau. Sinh hoạt Giáo Xứ chỉ
được quan tâm ở những tổ chức,
những sinh hoạt chung chứ ít khơi lên và nuôi
dưỡng được một " khung trời" tự do nội
tâm, một thứ "bản
lãnh" nội tại của người Tín Hữu
trong đời sống đạo, và như thế "đạo sinh hoạt", treo
đời sống Đức Tin của mình vào những
tổ chức, những sinh hoạt đao đức
chứ không thực sự sống
Đức Tin như một người trưởng
thành.
Thứ đến, ta có
thể thấy rằng quyên tắc tôn
trọng "thượng đế" của
nền kinh tế thị trường cũng phản ảnh một chút tinh thần
của Tin Mừng, của tinh thần Tân Ước,
nghĩa là tinh thần của người mục tử đi tìm con chiên lạc
chứ không phải chờ con chiên trở về;
chỉ có điều nếu châm ngôn khách hàng là
"thượng đế" của nền kinh tế
thị trường nhằm o bế những người
có tiền, thì tinh thần của Tin Mừng lại đòi
hỏi người mục tử quan tâm
đến những người nghèo, nghèo cả
về vật chất lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, trong
đời sống của Giáo Hội Việt Nam, chúng ta
nhận thấy, nói chung, người mục tử ít tôn
trọng nhu cẩu riêng của người Tín Hữu. Nhất
là những "người nghèo", những người
có hoàn cảnh riêng biệt thì thường không
được tôn trọng và không được lắng
nghe để tìm được cách giải quyết.
Giáo quyền thì thường giải quyết vấn
đề theo kiểu "không kiểm soát được
thì cấm"; biện pháp ấy có thể
ngăn chặn được một số lạm
dụng, nhưng cũng luôn bao hàm những áp đặt oan ức cho một số
người khác, những người có hoàn cảnh khó
khăn thực sự, những "người nghèo"
thực sự, những người có nhu cầu thực sự cần được linh
động giải quyết. Một số Giáo
Phận và một số cha xứ không muốn hoặc
hạn chế tối đa việc giải quyết phép chuẩn
hôn nhân chẳng hạn, theo tôi, đó là một
thứ biện pháp giải quyết theo kiểu "không
kiểm soát được thì cấm".
Không kể những lý do
về não trạng, về đạo đức, theo phân
tích xã hội, chúng ta có thể nhận ra lý do sâu xa của
tình trạng nói trên cũng chính là qui
luật cung – cầu. Nếu xét theo qui luật cung
cầu thì trong Giáo Hội Việt Nam hiện nay,
người Linh Mục không cần giáo
dân mà giáo dân cần Linh Mục; nghĩa là cung không
đủ cầu. Chính điều đó làm cho người
Linh Mục càng ngày càng ít quan tâm đến việc "lên
đường đi tìm con chiên lạc", ít nỗ
lực xoay sở để loan báo Tin Mừng; nhưng
thường thoả mãn nhu cầu tâm linh của
người giáo dân một cách bất đắc dĩ;
hoặc đạo đức hơn thì cũng dừng
lại ở mức độ một người mục
tử liêm chính, chu toàn trách nhiệm đòi hỏi của
một người công chức.
Những tính cách như
thế khác xa mẫu mực của người mục
tử mang ngọn lửa của sứ vụ trong tim. Tình
hình mất quân bình theo luật cung cầu như thế làm
cho người Linh Mục cũng như những sinh
hoạt trong Giáo Xứ rất dễ tiến theo kiểu
ban phát, theo cơ chế xin cho như chúng ta thấy
trong xã hội thời kinh tế bao cấp trước
đây.
Khám phá nhu
cầu thật của người Tín Hữu
Khi người nông dân không
có khả năng để đi vào thời đại
cơ khí hoá, anh ta vẫn "trung thành" với con trâu.
Thế nhưng trong tình hình chung của nền sản
xuất cơ khí hoá, anh nông dân sẽ phải nhìn sang
mảnh ruộng bên cạnh, để thấy chiếc máy
cày đi quá mau, cầy xới đất quá tốt, rồi
anh ta đâm ra bực tức, quát nạt con trâu già của
mình để nó đi nhanh hơn, cầy xới
đất tốt hơn. Thế nhưng, com trâu không
thể nào trở thành chiếc máy cày được; con
trâu ì ạch kéo cày và lãnh nhận những đòn roi vô lý
từ anh nông dân chậm tiến.
Đó là thứ bệnh
tạm gọi là bệnh "quát nạt những con trâu già"; bệnh của
những người "mục đồng" không theo
kịp được diễn tiến mới của
thời đại, không đủ sức "leo lên máy
cày" để hướng dẫn người Tín
Hữu trong thời đại mới, và để bù
trừ thì người mục tử ấy trút tất
cả nỗi giận của mình lên những con
trâu khốn khổ, dựa theo những thói quen của
một thời đại đã qua: phải ăn mặc
đồng phục khi đi lễ, không được
đi lễ trễ, phải ngồi vào hàng nghế trên,
phải xưng tội vào đúng giờ qui định,
phải làm thủ tục hôn phối đúng giấy
tờ…; người mục đồng ấy trách móc
người Tín Hữu không tha thiết với việc Nhà
Thờ, người mục đồng ấy kêu than
người Tín Hữu đam mê kiếm tiền và ham mê
thăng tiến thế gian…; người mục
đồng ấy không hiểu được
những thúc bách gay gắt của thời đại
mới, những nhu cầu chính đáng, những thách
đố gay gắt của con người trong thời
đại đau thương và cả những hoàn
cảnh bi đát khiến nhiều người không thể
vào Nhà Thờ đúng giờ, không thể lên hàng nghế trên
để ngồi cách thanh thản, không thể đi
xưng tội đúng giờ…
Chúng ta có thể thấy rõ
là Giáo Hội Việt Nam chưa có, hoặc chưa có
một cách phổ biến, việc nghiên cứu mục
vụ có tính cách "khoa học" để có thể
"cảm" được những biến
động sâu xa trong tâm hồn con người
trước tác động của thời đại
mới, nhất là không có được những
đường hướng có tính chiến lược
trong kế hoạch mục vụ của mình. Hình như các
đấng bậc có trách nhiệm cao nhất trong Giáo
Hội Việt Nam ít dám nghĩ và dám
làm, nên không thấy được những vấn
đề trong Giáo Hội của mình và cũng không
đưa ra được một đường hướng
rõ rệt nào cả. Điều ấy khiến những
người có trách nhiệm thường đưa ra
những biên
pháp "kỷ luật" không nhằm một
chiến lược nào cả mà chỉ là những biện
pháp có tính cách đối phó tình thế; và đó
chính là mảnh đất tốt cho căn bệnh "quát
nạt những con trâu già".
Chẳng hạn, chúng ta có
thể thấy rõ Giáo Hội Việt Nam nói chung và
người Tín Hữu nói riêng quá thiếu sót trong khía
cạnh sống chứng tá Tin Mừng giữa trần
thế; hầu hết các hội đoàn của chúng ta mang
tính cách của một thứ hội đạo đức
nhiều hơn là sống tinh thần Công Giáo Tiến Hành,
nghĩa là qui tụ người Tín Hữu thuộc
đủ mọi thành phần vào những việc
đạo đức như nhau chứ ít khi giúp cho
người Tín Hữu sống Tin Mừng trong nghề
nghiệp, trong môi trường sống của mình như
một lời chứng.
Chẳng hạn
người Tín Hữu trong Giáo Hội Việt Nam
thường "treo’ đời mình vào sinh hoạt chung
hơn là sống Đức Tin với sự tự
chủ, tự nguyện từ chính bản thân; từ
đó, người Tín Hữu đạo đức dễ
trở thành những người vui với những sinh
hoạt đạo đức chứ không phải là
những người thực sự có mối tương quan sống
động với Chúa Giê-su; điều đó
làm cho người Tín Hữu đọc kinh giỏi chứ
không biết cầu nguyện và hết giờ sinh hoạt
của Nhà Thờ thì không biết làm gì.
Chẳng hạn
người Tín Hữu Việt Nam thường tìm cách
chu toàn lề luật hoặc né luật chứ không biết
sống với Chúa trong một lương tâm
sáng suốt và ngay thẳng; chẳng hạn người Tín
Hữu Việt Nam không có khả
năng sáng tạo bản thân để đáp lại thánh
ý Chúa đối với mình.
Những nhận
định như thế, nếu được đón
nhận một cách khoa học hơn, nếu
được đưa vào trong chiến lược phát
triển của Giáo Hội, thì chúng ta cần có những
lối mở: chẳng hạn khuyến khích tạo bầu khí thinh
lặng trong Phụng Vụ, khuyến khích
việc chầu Thánh Thể riêng, tập cho các Tín Hữu
biết đọc
Kinh Thánh trong suy niệm và cầu nguyện;
chẳng hạn nên để rộng một số quy
định để người Tín Hữu tập
dần biết sống với Chúa trong sự tự
chủ của lương tâm mình nhiều hơn.
Cơ may thể hiện những giá trị
chân chính của Tin Mừng
Tôi
thường nghĩ rằng một Giáo Hội không mang
trọng trách loan báo Tin Mừng, một Giáo Hội mà cán cân
truyền giáo không cân xứng, thì những thành phần trong
Giáo Hội ấy, Linh Mục và Tín Hữu, thay vì nhận
thấy những giá trị nhân bản Ki-tô đích thực
để giới thiệu cho người khác, ta sẽ
chỉ quanh quẩn xét nét nhau trong
nội bộ và tạo ra bao nhiêu những lễ nghĩa rườm rà mà thôi. Giáo
Hội đóng kín ấy thích đề cao chuyện đánh
giá hơn thua; tô vẽ những sinh hoạt hình thức
rầm rộ; đặt ra nhiều qui luật đòi
hỏi nhau một cách khó khăn. Những yếu tố
như thế chúng ta có thể thấy rõ trong các Xứ
Đạo "toàn tòng" hoặc những Giáo Phận có
nhiều tính cách "toàn tòng".
Cũng
thế, với thách đố của bầu khí kinh tế
thị trường, người mục tử không
thể dễ dàng đưa ra những áp đặt kỷ
luật theo kiểu từ trên xuống, nhưng luôn
phải khám phá nét đẹp của Tin Mừng để
giới thiệu, để mời gọi, để
thuyết phục; người Tín Hữu sẽ nhạy bén
hơn để thấy được cái kỳ cục
trong lối sống của mình. Trong bầu không khí kinh
tế thị trường, người ta luôn hy vọng
vào một lời đáp trả tự
nguyện của "người tiêu dùng". Bầu
không khí "cạnh tranh" như thế buộc
người mục tử phải đi vào "cuộc
chơi" một cách bình đẳng hơn.
Một
cách nào đó, nền kinh tế phân phối vận hành theo
hướng: "cái thiện" được chuyển
tải theo nẻo đường "cái chân"
để đến với người tiêu dùng; vận
hành ấy dễ trở thành một sự áp đặt
của bên sản xuất đối với bên tiêu dùng.
Trong khi đó, vận hành của nền kinh tế thị
trường lại đi theo chiều hướng "cái
thiện" chọn con đường "cái mỹ"
để kêu gọi, để "quyến rũ"
được sự đáp ứng của người
tiêu dùng; vận hành này mang tính cách của một cuộc
"đối thoại" bình đẳng nhằm tìm ra
chân lý.
Trong
đường hướng của nền kinh tế phân
phối, người ta đã có sẵn "cái
thiện" từ trước, người ta xác tín vào
"cái thiện" ấy và tìm biện pháp buộc
người khác phải chấp nhận bằng một
hệ thống ý niệm chặt chẽ. Ngược
lại, trong đường hướng của nên kinh
tế thị trường, "cái thiện" của tôi
được đưa vào cuộc thử luyện, vào
cuộc cạnh tranh trên bình diện giá trị ( cái mỹ )
để có thể tự chứng tỏ phẩm chất
của mình. Khi mà nhu cầu cuộc sống trở nên phong
phú và đa dạng, người ta không chỉ cần
ăn no mặc ấm, nhưng cần ăn ngon mặc
đẹp, thì đường lối của nền kinh
tế phân phối không thể đáp ứng
được nữa, nhưng chính tính cách năng
động của nền kinh tế thị trường
mới có thể tạo ra được mối
tương quan sòng phẳng hơn giữa người
sản xuất và người tiêu dùng, cũng như sáng
tạo ra dược những hàng hoá tích hợp cho
nhiều nhu cầu mới.
Chúng
ta có thể thấy một qui luật vận hành
tương tự như vậy trong đời sống
Giáo Hội. Trong một Giáo Xứ toàn tòng chẳng hạn,
các Linh Mục thường áp dụng đường
lối của một thứ "kinh
tế phân phối" trong cách tổ chức và sinh
hoạt; trong đó, có rất nhiều những qui
định chẳng những làm khó cho người Tín
Hữu nhưng nhất là còn làm lu mờ các giá trị nhân
bản cũng như những giá trị cứu độ
của Tin Mừng. Ngược lại, khi phải đối
diện với người khác tôn giáo, hoặc khi phải
đối diện với bầu khí kinh tế thị
trường mà trong đó có rất nhiều giá trị khác,
nhiều tổ chức khác có thể
quyến rũ tâm hồn con chiên, thì người
mục tử sẽ thấy phải làm sáng nét đẹp
tinh tuyền, cao quý của đạo Chúa.
Quả
thật, nhiều Linh Mục, và cả nhiều Tín Hữu
nữa, đã quá quen với cơ chế xin – cho, quen
với mối tương quan bề trên – bề
dưới, quen với cung cách đòi hỏi chứ không
chịu luỵ phiền, quen với sự khoái trá
được phục vụ chứ không phải phục
vụ… và không nhận ra được nhiều
sự kỳ cục thậm chí đến mức quái
dị đi ngược lại hoàn toàn với tinh
thần Tin Mừng. Có thể chính bầu không khí mới
của nền kinh tế thị trường, bầu khí
cạnh tranh gay gắt của thời đại WTO sẽ
là những yếu tố tạo nên một sự cải tổ
bắt buộc đối với những môi trường
Giáo Hội; và như thế, cũng có nhiều cơ may làm
sáng lên nhiều giá trị đẹp của Tin Mừng
Đức Giê-su hơn.
Tạm kết
Bầu
khí kinh tế thị trường trước hết
sẽ trở thành một lời
chất vấn đối với nếp sinh hoạt
của Giáo Hội Việt Nam. Khi
người Tín Hữu không tìm thấy được trong
Giáo Hội những đáp ứng cho nhu cầu tâm linh chân
chính và có tính nhân – thân của mình, thì sẽ có một số
người bỏ Giáo Hội, hoặc tìm đến
những giải đáp khác; và khi mà các người có trách
nhiệm trong Giáo Hội không "trả lời"
được cho lời chất vấn ấy một cách
tự nguyện, thì sẽ đến lúc chính qui luật
cung cầu sẽ trở thành một qui luật khách quan
buộc Giáo Hội Việt Nam phải thay đổi cung
cách của mình; nghĩa là khi mà người Tín Hữu ngán
ngẩm và không còn nhiều nhu cầu về tôn giáo nữa,
hoặc đúng hơn người Tín Hữu không
còn chấp nhận được tính cách bị bó buộc trong
Giáo Hội, thì các đấng bậc trong Giáo Hội
mới cuống cuồng chạy theo để vớt vát.
Có
người đã phải nói rằng: tôi sốt ruột vì
chưa thấy Giáo Hội Việt Nam suy
sụp. Đó không phải là lời của một
người chủ trương xoá bỏ tôn giáo, nhưng
là nỗi lòng của một Linh Mục nhận thấy
rằng: vì Giáo Hội Việt Nam không có vị Thánh
để thực hiện được một sự cải
tổ từ bên trong, thì đành phải
chấp nhận qui luật gay gắt của một sự
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
để có được một sự cải tổ
bắt buộc từ bên ngoài vậy.
|