Đức Giêsu chữa
lành bà bị
băng huyết.
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông
Gia-ia [Mc 5,21-24.35-43] và bà băng
huyết [Mc 5,25-43]). Đây
là một ví dụ nữa
về cấu trúc “tháp ghép
[sandwich construction]” của tác giả (x. 1,21-28; 2,1-12; 3,21-35; 6,7-33; 11,11-21; 14,1-11). Hai truyện này có nhiều
điểm chung: những người đau khổ là những người nữ; con số 12 (5,25.42); và từ vựng
(“lòng tin”, “sự sợ hãi”, “khỏi/lành mạnh”, “con
[gái]…”). Tuy nhiên, giọng văn của hai truyện này không giống
nhau, khiến phải cho rằng đây là hai truyện
lúc đầu độc lập với nhau: Truyện con gái ông Gia-ia được
kể bằng những câu ngắn, với ít phân từ
(participles) và các động từ ở thì hiện tại lịch sử (historic present); còn truyện bà băng huyết được kể bằng những câu dài, dùng
nhiều phân từ và ở thì quá khứ
aorist và vị hoàn (imperfect).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể
chia thành ba phần:
1) Mở:
Khung cảnh, các nhân vật
(5,21);
2) Hai
truyện về chữa lành (5,22-42a):
a- Chữa con gái ông Gia-ia (cc.
22-24.35-42a),
b- Chữa bà băng huyết (cc.
25-34);
3) Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh
của Đức Giêsu (5,42b-43).
3.- Vài điểm
chú giải
- lại trở sang bờ bên kia (21): Đức Giêsu
trở lại bờ biển phía tây (x. 4,35).
- một ông trưởng hội đường tên là
Gia-ia (22): Ít ra ta biết Gia-ia là một thành viên vị
vọng của hội đường Do Thái, thuộc hàng
kỳ mục có nhiệm vụ quan tâm đến những
vấn đề tôn giáo và xã hội của cộng
đồng. Tên Híp-riYa’ir (x. Ds 32,41; Tl 10,3-5; HL. Iaðros) có
nghĩa là “ước gì Ngài (= Thiên Chúa) soi sáng”.
- sụp xuống… khẩn khoản nài xin (22-23): “Sụp
xuống”(HL. piptei, x. 3,11; 5,33; 7,25) tương tự
động từ proskyneô (“quỳcxuống”; x. 5,6; 15,19), là
thái độ vâng phục bày tỏ với một
người trên, và trong ngữ cảnh khác, là sự tôn kính
bày tỏ ra với Thiên Chúa. Tác giả dùng hai động
từ trên để giới thiệu Gia-ia như là một
người cầu xin: vì ở trong một hoàn cảnh
bế tắc, một bậc vị vọng Do Thái đã xin
Đức Giêsu giúp đỡ.
- con bé: “con gái nhỏ” (HL. thygatrion, từ giảm
nhẹ của thygater, “con gái”). Từ giảm nhẹ này nói
lên tình âu yếm của người cha đối với
con mình.
- gần chết rồi: Mt nói “vừa mới chết”
(Mt 9,18), còn Lc thì nói “đã gần chết (đang hấp
hối)” (NTT; Lc 8,42). Mc thì viết
“đã gần lâm chung” (NTT) (HL. eschatôs echei).
- bà băng huyết (25): Chứng bệnh này làm cho
người phụ nữ bị ô uế về
phương diện tế tự (x. Lv 15,19.25), và do đó,
tất cả những gì bà động chạm đến
cũng trở nên ô uế.
- khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc (26):
Lời kết án các thầy thuốc đây thuộc
nguồn riêng của Mc. Tác giả Lc sẽ nói nhẹ nhàng
hơn (x. Lc 8,43).
- sợ phát run lên (33): Bà sợ có lẽ vì thấy mình
đã làm cho Đức Giêsu bị luỵ vào tình trạng ô
uế theo luật. Nhưng cũng có thể bà sợ vì
thấy điều vừa xảy ra cho mình. Sợ và run
cũng là một phản ứng của con người khi
Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 15,16; Đnl 2,25; 11,25; Gđt 15,2).
- lòng tin (34): Đây không phải chỉ là một
cuộc chữa lành thể lý nhờ tiếp xúc bên ngoài
với bản thân Đức Giêsu, nhưng là ơn cứu
độ mà lời Người loan báo và ban cho tất
cả những ai tin tưởng đến với
Người. Vì thế động từ sesôken có thể dịch
là “đã chữa con lành” hoặc “đã cứu con”.
- đến đặt tay lên cháu, để nó
được cứu thoát và được sống:
Việc đặt tay trên người đau ốm là
một cử chỉ thường có trong các nghi thức
chữa bệnh ngày xưa, dựa trên ý tưởng
người chữa bệnh là một người
đầy quyền lực (x. 5,27-30: một kiểu
tiến hành ngược lại). Những từ ông Gia-ia
nói ra (“được cứu thoát”, “được
sống”) là những từ chuyên môn được các nhóm
Kitô hữu tiên khởi sử dụng để nói về
sự cứu độ và sự sống được
phục hồi (sống lại). Như vậy, rất có
thể các Kitô hữu tiên khởi đã coi câu truyện
phục hồi sự sống cho con gái Gia-ia là một
lời tiên báo hoặc một sự tiền dự vào sự sống lại của
Đức Giêsu và của những ai tin vào Người.
- con gái ông chết rồi (35): Gia-ia chìm đi một lúc
trong đám đông đang đi theo Đức Giêsu. Trong
khoảng thời gian này, bà băng huyết được
chữa lành. Đến lúc ấy, Gia-ia nhận
được tin chẳng lành: con gái ông đã chết! Vậy
thì “làm phiền Thầy chi nữa?”. Dưới mắt
những người đưa tin, người cha đã
đến gặp Đức Giêsu quá muộn. Chính họ
vừa mới nói ra sự không tin của họ; chính thái
độ này vừa như muốn giới hạn
quyền năng Đức Giêsu lại vừa muốn lung
lạc lòng tin của Gia-ia.
- Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi (36):
Đức Giêsu đã trấn an ông, bởi vì ông cần
phải thắng vượt được nỗi sợ
hãi của ông, để sẵn sàng chứng kiến
quyền lực thần linh của Đức Giêsu hiển
lộ ra. Công thức “Đừng sợ” ở những
chỗ khác thường được dành cho các hoạt
cảnh mạc khải (x. 6,50; Mt 28,5; Lc 1,13.30); ở
đây công thức này cũng đang chuẩn bị một
cảnh thuộc loại đó. Tác giả Mc thường nhấn
mạnh đến nỗi sợ hãi, kinh ngạc hoặc
kinh hoàng nơi những người đã chứng kiến
các phép lạ (x. 1,27; 2,12; 4,41; 5,15; …), nhưng những
phản ứng này không đưa tới đức tin. Đức
Giêsu khuyến khích Gia-ia đừng chao đảo trong
đức tin, bởi vì, như Đức Giêsu sẽ nói
với người cha của đứa bé động
kinh, “cái gì cũng có thể, đối với người
có lòng tin” (9,23).
- người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ (38): Tình
trạng ồn ào, với sự hiện diện của
những người khóc mướn, dường như
chứng tỏ đứa bé đã chết thật
rồi.
- nó ngủ đấy (39): Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, cái
chết thường được tượng trưng
bằng giấc ngủ (Đn 12,2; Ga 11,13; 1 Cr 15,20.51; Ep
5,14; 1 Tx 5,6.10). Bản LXX cũng thường dùng
động từ “ngủ” để nói về cái chết.
Bản văn Mt 9,18 và Lc 8,53.55 cũng theo ý nghĩa ấy. Nhưng
động từ ấy, trong bản văn Mc thì còn có vẻ hàm hồ, lý do là ngay ở đầu, tác
giả ghi nhận là đứa bé chưa chết. Dù câu
truyện có vẻ là cuộc phục sinh một em bé,
biết đâu chừng nó chưa chết, chỉ rơi vào
tình trạng hôn mê thôi; và Đức Giêsu với cái nhìn thấu suốt, đã nhận ra
tình trạng ấy của đứa bé, nên đã nói như
thế? (x. Mann; NJBC). Khi đó, câu truyện này sẽ là
truyện về một cuộc chữa lành ngược
lại mọi hy vọng và ngược lại sự
lượng định khôn ngoan của những
người có mặt (x. 5,43).
- Họ chế nhạo Người (40): Phản ứng
mạnh mẽ của đám đông được
nhắc tới bằng câu này vừa cho thấy họ không
tin vừa càng nêu bật tính cách phi thường của những
gì Đức Giêsu sắp làm. Cha mẹ em bé ở vào vị
trí chứng nhân cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dường
như mọi người đều đồng ý là
đứa bé đã chết.
- nơi nó đang nằm: Đây là chi tiết của
riêng Mc. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu vào phòng lần
đầu tiên.
- Talitha koum (41): (Aram tơlitha’ qum). Chi tiết này
rất có thể chứng tỏ câu truyện đang
được một người đã chứng kiến
tận mắt kể lại.
- đứng dậy và đi lại được
(42): Hai động từ này được dừng ở
hai thì khác nhau. “Đứng dậy”, anestê, ở thì quá
khứ aorist, diễn tả một hành vi vừa làm xong, còn
“đi lại”, periepatei, ở thì vị-hoàn (imperfect),
diễn tả một hành vi còn kéo dài.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Mở: Khung cảnh, các nhân vật ( 21)
Chúng ta gặp lại những
yếu tố quen thuộc trong câu mở đầu này:
đám đông qui tụ ở bờ Biển Hồ (x. 4,1),
con thuyền (x. 4,1.36), vượt hồ (x. 5,1t) .
* Hai truyện về chữa lành (22-42a)
Đức Giêsu đào tạo các môn
đệ không những bằng lời nói mà còn bằng các
hành động nữa. Một vài hành động nổi
bật hẳn, bởi vì Người chỉ cho Phêrô, Giacôbê
và Anrê tham dự thôi (5,35-43; 9,2-9; 14,32-42). Trong truyện cho
con gái Gia-ia sống lại, tác giả nói hai lần là
Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ ấy theo
thôi (cc. 37.40). Họ không có nhiệm vụ nào cả; họ
chỉ phải có mặt mà trực tiếp chứng
kiến một hoàn cảnh bế tắc về
phương diện con người, nhưng cũng
thấy sự tin tưởng người ta đăt vào
Đức Giêsu và thấy quyền lực siêu phàm của
Người.
Trong sự cố bà băng huyết
được lành, họ đã thấy: bà hoàn toàn không mong
dựa vào sức lực con người nữa, nhưng bà
vẫn không mất hy vọng, bà đặt tin tưởng
nơi Đức Giêsu (c. 28). Gia-ia thì hy vọng là nhận
được sự trợ giúp cho con gái ông đang
hấp hối (c. 23). Nhưng trên đường về có
Đức Giêsu cùng đi, ông đã được tin
chẳng lành. Đây là điểm gay cấn. Có tương
quan nào giữa Đức Giêsu và cái chết? Phải
chăng Đức Giêsu có là thầy thuốc tài giỏi
nhất, cũng phải bó tay trước cái chết? Người
đã kêu mời Gia-ia đừng sợ hãi và thất
vọng, nhưng hãy đứng vững trong niềm tin (c.
36). Giữa lời khuyên của các sứ giả (c. 35) và
lời khuyến khích của Đức Giêsu, ông đã nghe
theo Đức Giêsu và đi với Người đến
với đứa con gái vừa tắt thở. Đức
Giêsu không rút lại sự giúp đỡ đã hứa và
tiếp tục tiến bước, dù bây giờ là tiến
bước đến với một người đã
chết.
Đến đây, Đức Giêsu
muốn ba môn đệ chọn lọc có măt, không
phải để họ tích cực làm việc gì, nhưng
để họ tham dự vào sự cố thật gần
gũi. Khi Đức Giêsu nói rằng em bé chỉ “ngủ”
thôi, mọi người đều chế nhạo
Người, bởi vì họ chắc chắn em đã
chết. Bây giờ, Người lại làm một cuộc
phân rẽ nữa: chỉ cha mẹ em bé và ba môn đệ
được đi với Người vào gặp em bé
đã hết. Họ đã chứng kiến hành động
hết sức đơn giản của Người:
Người chỉ cầm lấy tay em và gọi em
dậy. Thế là chuyện không thể tin nổi đã
xảy ra: em đứng dậy và đi lại
được. Tác giả còn ghi lại một chi tiết
cho thấy Đức Giêsu rất tinh tế: Người
bảo họ “cho con bé ăn”.
Kết: Phản ứng của dân
chúng và lệnh của Đức Giêsu (42b-43)
Hành vi của Đức Giêsu đã
làm nổ tung các giới hạn của mọi niềm hy
vọng, và cả những giới hạn của kinh
nghiệm của các môn đệ. Họ phải nhìn
nhận: Đức Giêsu mạnh hơn sự chết. Các
môn đệ không còn như trước nữa; một
thực tại mới vừa xuất hiện ở chân
trời kinh nghiệm của họ. Đứng
trước cái chết, các môn đệ có thể trả
lời với nó không chỉ bằng các tiếng than van
rỗng tuếch, nhưng bằng niềm tin tưởng
vào quyền lực của Đức Giêsu. Họ không
mạnh, nhưng họ biết rằng Đức Giêsu
rất mạnh.
+ Kết luận
Nơi ông Gia-ia và bà băng huyết,
tác giả Mc cho chúng ta thấy hai ví dụ tương
tự về bước đi của người tín
hữu và câu trả lời họ nhận được
từ Đức Kitô. Bên kia phép lạ thể lý, tác giả
muốn giúp chúng ta cảm nhận được sự
sống viên mãn Đấng Cứu Thế ban cho
người tín hữu, lúc này, khi Người đã
được tôn vinh bởi cuộc Khổ Nạn và
Phục Sinh.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng là
người được Đức Giêsu tách riêng ra
để trải nghiệm quyền lực của
Người trên những hoàn cảnh gay go. Chắc chắn
Đức Giêsu không muốn chúng ta nhắm mắt khi đứng
trước các giới hạn của khả năng con
người, hoặc chao đảo giữa ảo
tưởng và thất vọng. Chúng ta sẽ phản
ứng thế nào? Là chứng nhân của Đấng là Chúa
tể, chúng ta biết mời gọi người ta bình
tĩnh giữ vững niềm tin? Hay là chỉ hùa theo
số đông, buông xuôi theo hoàn cảnh khó khăn như
một định mệnh khắc nghiệt?
2. Ông Gia-ia đã chứng tỏ
một đức tin đáng phục. Bà băng huyết
cũng có những suy nghĩ và chọn lựa nói lên lòng tín
thác. Bởi vì Đức Giêsu có đó để khuyến
khích, trấn an, mời gọi họ vững vàng đi
tới. Niềm tin vào Đức Giêsu hôm nay có giúp các môn
đệ của Người hiên ngang tiến đi và làm
điểm tựa cho người khác trong hành trình
đức tin của họ?
3. Cũng cần phải hiểu
Đức Giêsu có uy quyền như thế, nhưng vì sao
Người đã không cho mọi người chết
sống lại, tức là hiểu ý nghĩa của việc
Đức Giêsu cho em bé này sống lại, dù sau đó em
sẽ lại chết. Bên kia phép lạ, Đức Giêsu
mời gọi chúng ta khám phá ra mầu nhiệm bản thân
Người. Bên kia cái chết thể lý, Người
mời chúng ta hướng tới sự sống viên mãn.
4. Trong hành trình phục vụ,
nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đức
Giêsu, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bước, dù
con đường trước mắt có vẻ đã khép
lại. Trong trăm công nghìn việc nhằm phục vụ
hạnh phúc của con người, chúng ta vẫn
được mời học lấy cái nhìn tinh tế và ân
cần của Đức Giêsu: “cho con bé ăn”. Đức
Giêsu thấy nhu cầu nhỏ bé của từng con
người, dù bé nhỏ. Người không bao giờ vì
số đông mà quên từng cá nhân và coi thường nhu
cầu của từng cá nhân.