Hỏi: Xin cha giải thích thêm
về vai trò và trách nhiệm của giáo sĩ, tu sĩ và
giáo dân trong Giáo Hội và tại sao tu sĩ không được cử hành các
bí tích như giáo sĩ?
Trả lời:
Trước hết, nhờ
công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và qua bí tích rửa tội,
người tín hữu Chúa Kitô trở nên “giống
nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân
riêng của Thiên Chúa để loan truyền những kỳ công của Người,
Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền tối tăm vào nơi ánh sáng
diệu huyền. Xưa anh em chưa phải là một dân. Nay anh em đã là
dân của Thiên Chúa; xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót
(của
Chúa),
nay anh em đã được thương
xót. (1 Pr 2: 9-10)
Trên đây là vinh phúc và là danh hiệu cao quí nhất của người
Kitôhữu với tư cách là Dân mới của Thiên
Chúa trong Giáo Hội, theo Thánh Phêrô.
Không có danh hiệu và vinh dự nào cao
trọng hơn nữa. Chính vì vinh phúc này mà Thánh Augustinô (354-430) đã nói: “Với anh em tôi là Kitô hữu. Cho anh em
tôi là Giám mục. Kitôhữu là một ân sủng trong khi Giám mục là
một trách nhiệm nguy hiểm.”
Tuy
nhiên, sống trong Giáo Hội, người tín hữu không có chung một
chức năng và nhiệm vụ như nhau. Ngược lại, theo Thánh Phaolô,
thì “anh em là
thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh,
Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai
là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được
ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ
người khác…” (x. 1 Cor
12: 27-28).
Như thế, tuy
khác nhau về vai trò và trách nhiệm, nhưng mọi thành phần dân
Chúa đều bổ túc cho nhau và cùng nhau phục vụ để
mở mang Nước Thiên Chúa và xây dựng Giáo Hội
là Thân Thể Nhiệm Mầu (Mystical Body) của Chúa Kitô giữa trần
gian.
Theo giáo lý, tín lý và giáo luật hiện hành của Giáo Hội, thì
Dân Chúa được khai sinh qua Phép Rửa,
được lớn lên trong đức tin, đức cậy và đức mến nhờ bí
tích Thêm Sức và bí tích Thánh Thể, là “ nguồn mạch và là
đỉnh cao của đời sống KitôGiaó” (LG.no.11). Người tín hữu
được mời gọi sống trong ba ơn gọi hay bậc sống
khác nhau. Đó là bậc giáo sĩ, bậc tu sĩ và bậc giáo dân
có gia đình. Ngày nay có thêm một bậc
sống nữa là bậc độc thân, tức những người không thuộc ba bậc
sống nói trên
Phân chia như vậy vì ơn gọi riêng biệt của từng người theo kế
hoạch của Thiên Chúa chứ không có mục đích phân biệt địa vị cao
thấp, hay giá trị hơn kém theo tiêu chuẩn người đời.
Nói
về ba bậc sống hay ba ơn gọi đặc biệt trên,
Giáo lý hiện hành của Giáo Hội dạy như sau:
“Do
sự thiết lập của Thiên Chúa, trong Giáo Hội có những tín hữu là
thừa tác viên thánh mà theo luật được gọi là giáo sĩ, những tín
hữu khác được gọi là giáo dân. Trong số các tín hữu thuộc cả hai
loại này, có những tín hữu nhờ sự tuyên khấn các lời khuyên của
Phúc âm mà được thánh hiến cho Giáo Hội để phục vụ cho sứ mạng
của Giáo Hội. (bậc tu sĩ)”
( x. SGLGHCG, số 934)
Nói
khác đi, một số tín hữu được mời gọi để sống và thi hành nhiệm
vụ của hàng giáo sĩ, tức là đáp lời mời gọi của Chúa,
được huấn luyện chuyên môn để nhận lãnh các chức
thánh (Holy Orders) cần thiết cho việc
phục vụ Dân Chúa trong Giáo Hội. Cụ thể như sau:
I- Hàng giáo sĩ
(clergy) bao gồm những người được gọi để lãnh nhận
các chức thánh như Phó tế, Linh mục và Giám mục. Đó là thành
phần của hàng giáo sĩ thừa tác (ministerial clergy). Chức
năng của hàng giáo sĩ là phục vụ, rao giảng lời Chúa, dạy dỗ
chân lý, cai trị, thánh hóa mình và người khác nhờ lời cầu
nguyện và cử hành các bí tích Thánh Tẩy, Thêm sức, Thánh Thể và
Hòa giải.
Chỉ có linh mục và Giám mục được gọi là tư tế
(sacerdos) vì có chức tư tế thừa tác (Ministerial Priesthood) và
được quyền tế lễ mà thôi.
Các
Phó tế là những thừa tác viên được truyền chức thánh để lo công
tác phục vụ trong Giáo Hội, cụ thể là phục vụ bàn thánh, công
bố Lời Chúa và được năng quyền giảng lời Chúa, chứng hôn, cử
hành nghi thức an táng và rửa tội cho trẻ em.
(không cho người lớn mới gia nhập Đạo, vì người tân tòng được
lãnh 3 bí tích rửa tội thêm sức và Thánh Thể một trật trong cùng
thánh lễ. Do đó, Phó tế không được rửa tội cho người tân tòng
vì không được ban bí tích thêm sức trong dịp này.).
II- Hàng Tu sĩ (Religious)
Bậc
sống thứ hai là bậc tu trì. Đây là ơn gọi đặc biệt dành cho các
tín hữu nam nữ đã quảng đại đáp lời mời gọi của Chúa để tự
nguyện khấn và sống ba lời khuyên của Phúc Âm là khiết tịnh
(chastity) khó nghèo (poverty) và vâng phục (obedience) trong
một Dòng Tu hay Tu Hội được thành lập hợp pháp theo giáo luật.
(x. cans. 573-76). Đây là bậc sống thánh hiến (consecrated life)
dành cho những người có ơn gọi sống những linh đạo
(spirituality) hay đặc sủng (charisms)
riêng biệt của nhiều Dòng Tu hay Tu Hội
khác nhau đang hoạt động trong Giáo Hội.
Thí
dụ: Dòng Thuyết Giáo (Order of
Preachers, O.P) của Thánh Đa-Minh chuyên về giảng thuyết. Dòng
Tên (Society of Jesus, SJ) của Thánh Ignatius Loyola, thành lập
năm 1534, với khẩu hiệu “Ad majorem Dei gloriam = Cho
vinh danh lớn lao của Thiên Chúa” chuyên giảng dạy ở
Đại Học và hoạt động trong giới trí thức.. Dòng
Chúa Cứu Thế (C.Ss.R) Chuyên giảng cấm phòng và cổ võ lòng sùng
kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp…
Các Dòng và Tu Hội
thường không có nhiệm vụ thi hành mục vụ cho các Giáo xứ, nhưng
vì các Giáo Phận đều thiếu linh mục đia phận ( Diocesan
Priests) hay còn gọi là linh mục Triều , nên rất nhiều linh mục
Dòng đã được mời để đảm trách mục vụ ở các Địa Phận trên toàn
Nước Mỹ và ngay cả ở Việt Nam nữa.
Thật ra, bậc sống tu trì không phải là bậc sống ở giữa bậc giáo
sĩ và giáo dân mà là một bậc sống chuyên biệt dành cho những
nam nữ Kitô hữu tự nguyện sống ba lời
khuyên của Phúc Âm để “bắt
chước cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội
nếp sống Con Thiên Chúa đã sống khi Người xuống thế thi hành
thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống Người đã đề ra cho các môn
đệ theo Người.”
(x .LG. 44)
Các
nam tu sĩ thuộc nhiều Dòng Tu hay Tu Hội, ngoài 3 lời khấn
Dòng, còn có thể học và lãnh chức thánh để trở thành các giáo
sĩ có chức linh mục hay giám mục Dòng. (Đã có nhiều Giám
mục, Hồng Y và cả Giáo Hoàng xuất thân
từ các Dòng Tu). Như vậy
một linh mục có thể là một tu sĩ vì thuộc về một Dòng Tu hay Tu
Hội. Thí dụ: các cha Đa-Minh, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Tên, Tu
Hội Tân Hiến .. . Nhưng một giáo sĩ (phó tế, linh mục Giáo Phận
hay còn gọi là Triều) thì không phải là tu sĩ vì không thuộc
về một Dòng Tu hay Tu Hội nào, mà trực
thuộc một giám mục điạ phận mà thôi
Liên can đến phần thứ 2 của câu hỏi trên, về lý do tại
sao tu sĩ không được cử hành các bí tính, xin được phân biệt rõ
như sau :
1- Nếu
tu sĩ , ngoài ba lời khấn, còn có chức linh mục (các
cha Đa Minh, Dòng Tên, Dòng Đồng Công.v.v ) thì được cử hành các
bí tích như linh mục Triều, (trừ bí tích Truyền Chức Thánh dành
riêng cho Giám mục)
2- Nếu
không có chức thánh (phó tế, linh mục) thì tu sĩ
không không được cử hành bất cứ bí tích nào,
trừ bí tích rửa tội trong trường hợp nguy tử khi không có giáo
sĩ có chức thánh (phó tế, linh mục, giám mục). Nghĩa là trong
trường hợp bình thường, thì các tu sĩ
(các Thầy, các Sư Huynh, và Nữ tu (Soeurs, Síters)
không được phép rửa tội, chứng hôn hay cử hành nghi thức
an táng cho ai cả. Nhưng trong trường
hợp nguy tử, khẩp cấp thì mọi tín hữu đều được phép rửa tội
nhưng phải theo đúng thể thức như dùng nước, đổ trên
đầu hay trên trán và đọc công thức Chúa Ba Ngôi như
Giáo Hội dạy..
III- Giáo Dân (Laity)
Theo định nghĩa trong Hiến Chế Tin Lý Lumen Gentium (Ánh Sáng muôn dân) của Thánh Công Đồng Vaticanô
II, thì “danh diệu giáo dân
(laity) được hiểu là tất cả những Kitôhữu không có chức thánh
hoặc bậc tu trì được Giáo Hội công nhận.”
(x. LG. số 31)
Nói
rõ hơn, giáo dân là thành phần Kitô hữu đông đảo nhất
trong Giáo Hội không thuộc về hàng giáo sĩ hay
tu sĩ , nhưng nhờ phép rửa “đã
trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ
và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những
người đang thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitôgiáo trong Giáo
Hội và trên trần gian theo phần vụ riêng của mình.” (
LG. 31)
Ngoài ra, như đã
nói ở trên, còn một bặc sống nữa mà Giáo Hội nhìn nhận đó là bặc
sống của những người độc thân (celibate), không muốn sống ơn
gọi làm tu sĩ, giáo sĩ hay kết hôn như những người có gia
đình. Thành phần này cũng không ít trong Giáo hội và xã hội ngày
nay.
Nhưng dù là không
kết hôn hay kết hôn, thì cũng là giáo dân sống và phục vụ trong
Giáo Hội cùng với hàng giáo sĩ và tu sĩ, là hai thành phần buộc
phải sống luật độc thân. Giáo dân nói chung, tuy không
thuộc về hàng giáo sĩ hay tu sĩ, nhưng không có nghĩa là thua
kém về phẩm chất hay giá trị mà chỉ có
nghĩa là không cùng có chung vai trò và trách nhiệm trong Giáo
Hội mà thôi. Giáo Sĩ, do ơn gọi và năng quyền (competence) được
lãnh nhận từ bí tích chuyên biệt là Bí Tích Truyền Chức Thánh,
có nhiệm vụ thay mặt và nhân danh Chúa
Kitô (in persona Christi) để tế lễ, giảng dạy,
cai trị và thánh hoá qua việc cử hành các bí tích, đặc biệt là
bí tích Thánh Thể và hoà giải.
Như
vậy, trách nhiệm và đối tượng phục vụ của hàng giáo sĩ chính là
giáo dân, tức đoàn chiên mà Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân lành, đã
trao phó nhiệm vụ chăn dắt cho các Tông Đồ xưa và nay cho
những người kế tục sứ mạng này là các Giám Mục và hàng Linh
mục, tức những cộng sự viên thân cận và
đắc lực của Giám mục.
Về
phần mình, giáo dân thi hành ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương
đế của Chúa Kitô chủ yếu bằng chính đời sống chứng nhân của
mình trước mặt người đời trong các môi trường sống. Cụ thể, khi
người giáo dân, cũng là công dân trong một xã hội, sống công
bình, thánh thiện, tha thứ và bác ái đúng mức giữa bao
người khác thì đã hùng hồn rao giảng Chúa Kitô
yêu thương, tha thứ và nhân hậu cho họ; đồng thời cũng mang
vương quốc bình an, công lý và thánh thiện của Người đến những
nơi còn đầy rẫy những bất công, tàn bạo, tội ác, sa đọa
và tục hóa ngày nay.
Đây
là cách phúc âm hoá thế giới còn hữu hiệu hơn cả những lời rao
giảng hùng hồn của giáo sĩ trên giảng đài trong nhà thờ, hay
âm thầm cầu nguyện trong các tu viện, mặc dù
cầu nguyện rất cần
thiết cho việc thi hành sứ mạng của Giáo Hội và cho
sự thành công của sứ mạng này.
Tóm
lại, tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm nhưng cả bốn
thành phần giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân (bậc độc thân và
bậc có gia đình) đều chung sứ mạng loan báo Tin
Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho những người chưa nghe biết để tất
cả đều được hy vọng cứu độ vì
“ Thiên
Chúa,
Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và
nhận biết chân lý.” (x. 1Tim 2:4).
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn