Chuẩn bị
ăn lễ Vượt Qua – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1.
Tại sao Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể khi
ăn mừng lễ Vượt Qua, và Ngài cũng tử nạn
và phục sinh vào dịp đại lễ này? Điều đó có ý nghĩa gì?
2.
Khác với lễ vật bị đốt cháy hoàn toàn trong
hy lễ toàn thiêu, con chiên bị sát tế vào dịp lễ
Vượt Qua lại trở nên của ăn
cho con người. Bạn có nhìn thấy
tương quan giữa hy lễ thập giá và bí tích Thánh Thể
không?
3.
Đức Giêsu không chỉ chịu đau khổ và chết
cho con người, mà còn trở nên của ăn
cho họ. Bạn có thấy đó là mẫu gương
để chúng ta bắt chước không?
Suy tư gợi ý:
1. Sự trùng hợp giữa ba biến
cố quan trọng
Đã đến thời điểm
Đức Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ
hy sinh toàn thiêu để thờ phượng Thiên Chúa và
đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng
lễ Vượt qua hàng năm của người Do Thái.
Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập
bí tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ
Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng hợp
giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc
lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn phục
sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý
nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt phải
liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Lễ Vượt Qua của người
Do Thái
Đại lễ này bắt nguồn từ
biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống
trị của Ai Cập, xảy ra trước Đức
Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp
giải phóng của Thiên Chúa, dân Do Thái được vượt
từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng
đến để giải phóng con người, làm cho họ
vượt từ ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ
qua tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng
chết trong tội lỗi qua tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh
phúc. Ngài thực hiện sự giải phóng
đó bằng cả cuộc đời của một vị
Thiên-Chúa-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc
tử nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử
nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt
qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình
trạng hay hư nát qua tình trạng bất diệt. Như
vậy, cuộc vượt qua của dân Do Thái qua Biển
Đỏ là biến cố đi trước làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của
Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua của những
ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi
qua cảnh tự do của con cái Thiên Chúa. Vì
thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm
mừng lễ Vượt Qua để thực hiện cuộc
tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa
hết sức sâu xa.
3. Hy tế toàn thiêu và hy tế chiên
vượt qua
Để cứu chuộc
và giải phóng nhân loại, Đức Giêsu phải trả
giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm
như một của lễ vật bị sát tế dâng lên
Thiên Chúa. Để hiểu
được sự đau khổ và cái chết của Đức
Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và
đền tội nhân loại, và để hiểu
được việc lập bí tích Thánh Thể như một
của ăn tâm linh mà Đức Giêsu để lại khi
bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần
hiểu ít nhiều về lễ hy sinh toàn thiêu và lễ sát
tế chiên Vượt Qua của người Do Thái.
Ngày xưa - ít nhất kể từ ông
Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do Thái
thờ phượng Thiên Chúa bằng cách dâng lên Ngài những
hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt
ra sau này từ thời Môsê, thì người muốn dâng hy lễ
toàn thiêu phải đặt tay trên con vật
khi nó bị giết để nói lên mình là người chủ
muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy
máu của con vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật
được chặt ra thành mảnh. Vị
tư tế đặt các mảnh thịt lên bàn thờ
để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho
chín để sau đó đem ăn. Ý nghĩa của
lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự
toàn phục của mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể
của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên toàn thể tạo
vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế
chính mình, nhưng nếu như thế, con người sẽ
phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một con vật nào
đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để
giết và thiêu cháy hoàn toàn. Điều này muốn nói
lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên
Chúa điều gì, vì tất cả đều thuộc về
Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để
thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, vừa để
đền tội và xin ơn cho mình.
Nhưng trước ngày giải phóng dân
Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy
một hình thức sát tế mới được thực
hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng
năm. Cách hy tế mới khác với cách cũ ở chỗ:
trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật
bị thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua
thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng bị
không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ
được nướng lên để sau đó con
người ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong
nghi thức sát tế mới này con người cũng
được dự phần vào lễ vật, và lễ vật
trở thành của ăn nuôi dưỡng
con người. Đây chính là hình bóng hay ẩn dụ cho bí
tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập vào dịp
này.
4. Cuộc tử nạn của Đức
Giêsu với hy lễ Thánh Thể
Cuộc tử nạn của
Đức Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa
là chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là lễ vật.
Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy
nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế,
nhưng cả hai người ấy dường như
không bao giờ lại là lễ vật. Vì
lễ vật là đối tượng bị giết, chịu
đau khổ và chết thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ
có tội phải đền mạng. Trong hy lễ
toàn thiêu này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật
bị sát tế, chẳng những để thờ phượng
và tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để
đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng thời
xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng
khiếp này chỉ có thể phát xuất từ tình yêu cao cả
đối với Thiên Chúa và toàn thể con người,
đồng thời từ sự toàn phục đối với
Thiên Chúa Cha.
Nhưng hy lễ này, Đức Giêsu
không muốn thực hiện theo kiểu
hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn toàn bị
thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu
hiện tính «vì Thiên Chúa» một cách triệt để.
Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu
hy lễ chiên vượt qua, trong đó lễ vật ngoài
việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn
cho con người. Kiểu hy tế này mang tính hai chiều:
vừa «vì Thiên Chúa» mà cũng vừa «vì con người ».
Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập
thể của Ngài và trong Giao Ước Mới do Ngài thiết
lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị
giết, Ngài chọn chết trên thập giá - là bàn thờ của
hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều
ngang và dọc, tượng trưng cho hai chiều kích
căn bản ấy.
5. Tình yêu Đức Giêsu dành cho con
người
Vì thế, trước khi ra đi chịu
tử hình thập giá, tự nguyện làm «Con Chiên Vượt
Qua» bị sát tế, Đức Giêsu đã lập phép Thánh
Thể để lễ vật bị sát tế ấy là
chính Ngài trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con
người. Tôi thật xúc động khi
nghĩ đến điều này. Ngài vốn là Thiên
Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con
người chúng ta vô hạn. Tình yêu của
Ngài đối với chúng ta là một đối trọng
cho tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết
chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải
dành trọn vẹn cho mình. Tại sao?
Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người.
Điều này có phần nào tương tự như
người chồng đòi hỏi người vợ phải
dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho mình,
nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ
tình yêu và sự trìu mến ấy cho con cái, vì chính người
chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người
vợ. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia
sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các Ngài phải dành
trọn vẹn cho nhau. Điều đó
chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.
Ngài đến thế gian không chỉ
nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến
việc biểu lộ tình yêu, sự vâng phục đối
với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con
người, đến việc sáng kiến ra những
điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con
người, chắc chắn không chỉ vì con người
là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng
con cái Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng
thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng chia sẻ
đau khổ với con người, càng cảm nghiệm
được sự dày vò khó chịu của đau khổ,
Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy
tính cảm thông đó khiến Ngài không chỉ đau khổ
và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để nuôi dưỡng chúng ta, để
ở lại với chúng ta, để có thể ban sức
mạnh thần thiêng cho chúng ta, để đời sống
chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.
6. Áp dụng tinh thần yêu thương
của Đức Giêsu vào đời sống
Thiên Chúa cảm thông và yêu
thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại
không cảm thông và yêu thương nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều
kích: yêu Thiên Chúa và thương con người, lẽ nào
chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan
tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn
Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến
nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại
sao? Vì những người chung
quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta
hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa -
Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề
ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của
chúng ta cho bằng những người chung quanh đang sống
với chúng ta. Tại sao chúng ta lại
quá quan tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và
quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên
Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước
Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu
khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn
trở nên «của ăn» cho anh chị em mình nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu là Thiên Chúa mà
lại yêu thương con người như vậy,
đang khi chúng con cùng là con người với nhau, cùng chịu
đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm
với nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau.
Chúng con quá ích kỷ, tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha
hãy ban tình yêu cho chúng con.