Làm
chứng.
Việc Chúa sống lại không phải
là một chuyện bịa đặt, một chuyện
hoang đường, nhưng đây là một sự kiện
lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng
mắt: lịch sử đã ghi lại việc Chúa chết
thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch
sử đã ghi lại ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và
cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống
rỗng, lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh,
Chúa đã hiện ra nhiều lần.
Nếu muốn biết chắc chắn,
rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng,
đọc kỹ đoạn 28 của thánh Matthêu, đoạn
16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca và đoạn
20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng
quả quyết: Chúa đã chết trên thập giá, đã
được tháo xác xuống tẩm liệm, đã
được táng trong mộ và trước cửa mộ
được che bằng một tảng đá lớn, rồi
tất cả đều quả quyết: ngày thứ nhất
trong tuần, tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.
Quả thực, Chúa Giêsu chết vào chiều
Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi
đến sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp
theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết,
người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng,
xác Ngài không còn trong đó, ai cũng tưởng thi hài Chúa
đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của
Ngài cũng nghĩ như thế, nhưng chính hôm ấy,
Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng sốt
và sợ hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại.
Nhưng sự thực là như vậy, các ông đã nhìn thấy
tận mắt và sờ tận tay thân xác
Phục sinh của Chúa, chẳng hạn như câu chuyện
kể lại trong bài Tin Mừng.
Trong khi các môn đệ còn đang hoang
mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín, bàn tán
về những chuyện đã xảy ra và đang xảy
ra xoay quanh vấn đề Chúa chết và hiện ra với
các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức
là sáng sớm Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện
ra, đứng giữa các ông và chúc bình an cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hãi, tưởng là
ma. Cảnh Chúa hiện ra này không khác gì cảnh một
thủ lãnh trước các đảng viên phản bội
và đào ngũ, thế mà không một lời
than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một
lời bóng gió ám chỉ sự hèn nhát của các ông cũng
không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn nữa, Chúa
còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài
đã sống lại, Ngài đang ở giữa các ông,
đó là ba bằng chứng sau:
Trước hết, Chúa thuyết phục
các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài còn mang vết
đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng
trước các ông chứ không phải ai khác, rồi Chúa còn
bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho kỹ để
thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là
do ảo tưởng của các ông. Tiếp
đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để
thuyết phục các ông. Ngài hỏi các ông có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc
cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn
ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này,
Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài không phải là ma
hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một
bằng chứng khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc
lại cho các ông nhớ Sách Thánh đã báo trước:
“Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục
nhã, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã
nói đều ứng nghiệm nơi Ngài. Sau khi đã đưa ra tất cả những bằng
chứng cần thiết chứng minh Ngài đã sống lại
thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về
tất cả những điều ấy cho mọi người.
Như vậy, các tông đồ, các môn
đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc
đời cũng như về mầu nhiệm Phục
sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu
tiên và chắc chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm
chứng về những điều ấy, tức là việc
làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt
các ông phải nối gót Ngài hoàn thành công tác cứu chuộc
nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết
và tin vào Chúa để đạt ơn cứu độ,
các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử
đã cho thấy các ông đã thực thi vượt mức
vai trò chứng nhân ấy.
Từ đó đến nay, luôn có những
lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp
loan báo Tin Mừng và làm chứng Chúa đã chết và sống
lại. Chúng ta cũng vậy,
nếu chúng ta không tin Chúa đã chết và sống lại vì
chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô hữu, và một khi
chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan
báo cho người khác niềm tin đó nữa, đó là mục
đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của
chúng ta.
Nói rõ hơn, chúng ta phải rao giảng
và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần đức
tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng
ta và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ,
mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần
đức tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống
qua những việc làm hàng ngày, qua nghề nghiệp, qua các
giao tiếp với người khác, và qua cả những
lúc vui chơi, giải trí. Nói tóm lại, chúng
ta phải làm chứng cho Chúa, cho đạo bằng đời
sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời
sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu
thương là một tấm gương sáng trước mặt
mọi người, một đời sống tốt
đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói
hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần
thuyết phục những người chưa có đạo,
những người không hiểu về chính nghĩa của
đạo bằng chính đời sống tốt đẹp,
dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin mỗi người
hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng
cho Chúa và cho đạo không?