Sống đức tin.
Ngày nay, người
ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề,
kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm
thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người
đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và
chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn
của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông
đồ khác nói lại là
chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không
có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã
dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt
cho chúng ta, mất một
bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô
Phục sinh, và nhất là
câu nói bất
hủ của Chúa: “Phúc thay
những người
không thấy mà tin”.
Đàng khác,
khiển trách Tôma kém lòng
tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và
trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác
hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ
khác. Như thế, Chúa còn thông cảm
nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa
thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống
đối để
đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát
vọng thấy rõ hơn để
tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản
chứng chăng nữa thì cũng
đừng ngạc nhiên và lo lắng,
ngược lại,
phải hy vọng, vì đó là thái
độ tìm kiếm sâu xa, nó là
dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá
ra những giá trị chân
thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra
được điều
chính yếu của Kitô giáo là đức
tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức
Kitô.
Vậy đức
tin là gì? Đức
tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như
thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông
run sợ và phát ra tiếng
kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con”. phải chăng
chính những lời bộc phát đó đã
diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn
người ta? Phải
chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của
con người để
tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước
khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả
lời mà kêu lên: “Thầy
là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng
sống”. Và Chúa đã xác
định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì
không phải xác thịt hay máu huyết
tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu
sau phép lạ hóa bánh,
lúc bấy giờ Chúa nói về bánh
ban sự sống, Ngài làm cho
họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống
máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói
thế họ bỏ đi, còn các môn đệ
ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ
Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang
lên và cũng
là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những
lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị
của Lagiarô, Chúa đã hỏi
bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một
tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì
người tìm ra, khám phá được.
Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là
nhận biết một Đấng. Đức tin giống
như tia chớp nơi một người chồng
đang chờ đợi một người vợ
tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa
đám đông, anh đã nhận ra người anh
thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức
tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ
mình Ngài thôi.
Chúng
ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải
làm gì? Chúng ta phải sống
niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta
phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống.
Đó là cách thẩm định đức tin của chúng
ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng
thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút
ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải
thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của
người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính
sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức,
mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào
đời sống thực tế.
Người
Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học
cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức
tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên
Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy
có được thể hiện bằng một cuộc sống
tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp
gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng
đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy
chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi
người. Niềm tin ấy có được thể hiện
bằng những việc làm cụ thể của yêu
thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với
mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống
mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy
có được thể hiện bằng những hy sinh phấn
đấu không?
Đức
tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị
khi được thể hiện bằng những việc
làm cụ thể. Giống như cái đèn được
đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để
soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng
ta cũng cần phải được thắp lên chiếu
sáng cho mọi người. Nó cần phải được
đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng
ngày.
Cuộc
sống mỗi ngày với những độc điệu,
phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để
chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của
chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với
những người chung quanh chính là môi trường để
chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa
cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng
tích của tình yêu Chúa đối với mọi người.
Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều
có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.